Press "Enter" to skip to content

Triet tay o VN

Triết Tây ở Việt Nam: Từ Heiddeger đến Wittgenstein

Như Hạnh

Nói về việc học triết ở Việt Nam có nghĩa là nói về lịch sử trí thức Việt Nam (Vietnamese intellectual history). Đây là một vấn đề rộng lớn bao gồm những chi tiết văn hóa xã hội chính trị rất chi tiết và phức tạp. Trong bài viết này tôi không có tham vọng làm việc đó. Viết sách hay những tiểu luận học thuật (academic) với đầy rẫy các chú thích là việc tôi phải làm mấy chục năm qua, với vai trò là một người học giả giảng dạy ở đại học. Giờ đây đã nghỉ hưu hơn mười năm, tôi không còn hứng thú gì làm việc này nữa. Để cho những người trẻ tuổi còn nhiều tinh lực hăng hái làm việc này. Dĩ nhiên điều này không có nghĩa là tôi không còn lưu ý gì đến các vấn đề trí thức học vấn. Bài viết này chỉ là một thứ vignette: (đoản văn) nhận định về việc học triết học Tây phương tại Việt Nam. Trong khuôn khổ này với Việt Nam tôi ngụ ý miền nam Việt nam hay trước 75 gọi là Việt Nam Cộng Hòa, tôi không lưu ý, không biết và không có ý kiến gì về miền Bắc cả. Tôi có ấn tượng là trí thức miền Bắc chỉ rị mọ với Hán Nôm. Đó chỉ là ấn tượng của tôi thôi, không biết có đúng không. Người đọc cũng có thể nhận thấy ngay tôi viết với thể cách “autobiographical” (tự truyện). Thứ nhất tôi thấy thoải mái với thể cách này, thứ hai những vấn đề tôi nêu ra có tính cách lịch sử mà tôi có sống một phần trong đó.* Hơn nữa, những nhận định trong bài viết chỉ là ý kiến của riêng tôi. Tuy nhiên, đây không phải là những ý kiến chủ quan, vũ đoán. Dù sao tôi cũng là người có được đào luyện (trained) chính thức trong những vấn đề mà tôi thảo luận.

[*Lịch sử là một vấn đề rất phức tạp. Lịch sử không phải là một sự vật trong suốt (transparent) thông báo sự hiện của nó cho chúng ta. Lịch sử chỉ là những tường thuật (narratives) của những người được gọi là sử gia. Sử gia lại luôn luôn bị giới hạn bởi tư liệu, cách nhìn và thiên kiến của họ. Câu mà tôi thường nghe nói bởi cả người Việt lẫn người Mỹ, có trí thức nhiều và không có trí thức nhiều, “để rồi lịch sử sẽ phán xét” là một câu nói cũng mù mờ. Lịch sử nào? Nếu chỉ dựa vào tư liệu, nhiều khi cũng hết sức là bấp bênh. Ví dụ, nếu ai có được một cuốn chỉ nam hay gì đó về học trình Phật Khoa của Đại Học Vạn Hạnh sẽ thấy có những lớp như “Khóa mùa xuân: Upaniṣads”; “Khóa mùa thu: Abhidharma/A-tỳ-đạt-ma”, rồi xem đó là bằng cớ về các đề tài giảng dạy của Phật Khoa ĐHVH. Nhưng mà tôi là người thuộc lớp đầu tiên đi học ở đó. Bất chấp những gì ghi trong giáo trình, trên thực tế không có ai đủ trình độ để dạy các đề tài này cả, và hầu như không thực sự được giảng dạy Người ta có thể lập luận rằng, những người là diễn viên (actors) trong một biến cố lịch sử đặc thù nào đó không hẳn là tường thuật (narrate) chính xác hơn những người chỉ dựa trên tư liệu. Cũng rất có thể. Nhưng mà những diễn viên cũng có những tường thuật xứng đáng được lắng nghe.]

Xin trở lại vấn đề học triết ở Việt Nam. Việt Nam có là một quốc gia hay không là một vấn đề không giản dị như người ta nghĩ. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn than thở “một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”. Ông gọi cả người Trung Quốc và người Pháp tức là Tây là “giặc”. “Giặc” ở đây có nghĩa là kẻ thù. Nhưng mà nói một cách giản dị như những bài học lịch sử thời trung học ở Nam Việt Nam thì Việt Nam là một thứ “ngã tư quốc tế”, là nơi gặp gỡ của văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc và sau đó là Pháp. Ông Stephen O’Harrow, giáo sư sử học Việt Nam tại Đại Học Hawai’i, campus Mãnoa, từng nhận định rằng người Việt Nam trong thời bình thì cố gắng bắt chước văn hóa Trung Quốc. Chỉ khi nào bị chèn ép quá đáng thì mới đứng lên chống lại người Tàu. Tóm lại, khi cơm lành canh ngọt thì người Trung Quốc là thầy, đại sư huynh; khi không hòa thuận thì người Trung Quốc là giặc. Nói vắn tắt, cái mà ngày nay chúng ta gọi là nước Việt Nam là một sự chắp vá của các thành tố văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc, Pháp rồi bây giờ nói theo một thành ngữ Anh ngữ “throw America into the mix”. (Việt Nam chịu ảnh hưởng Án Độ trước, mặc dù người Ấn không bao giờ có mặt ở Việt Nam để áp đặt gì cả. Sau đó Trung Quốc sang xâm chiếm Việt nam đến cả nghìn năm, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ hầu như bị phai mờ luôn). Dĩ nhiên, chắp vá không có nghĩa là xấu, hầu như không có văn hóa nào mà không chắp vá. Có lẽ văn hóa thuần nhất chỉ có bộ lạc Pygmy hay một số bộ lạc ở Amazon chưa từng giao thiệp với người ngoài.

Viết đến đây tôi chợt nhớ đến học giả Ấn Độ lừng danh, D. D. Kosambi, nhận xét về quốc gia Ấn Độ trong cuốn The Culture and Civilization of Ancient India in Historical Outline (London: Rutledge and Kegen Paul, 1965). Kosambi vạch ra rằng Ấn Độ không có một ngôn ngữ hay mẫu tự quốc gia. Ấn Độ có rất nhiều thổ ngữ (dialects) khác nhau. Không có chủng tộc Ấn Độ. Có người Ấn da trắng mắt xanh, có người Ấn Độ tóc đen, mắt đen. Dị biệt văn hóa giữa người Ấn Độ trong cùng một tỉnh cũng lớn như dị biệt ngoại hình giữa các khu vực khác nhau của quốc gia. Thể chế chính trị và hệ thống giáo dục thì hiện đại noi theo Tây phương. Đa số các kỹ nghệ đều do ngoại quốc làm chủ.

Xin quay trở lại với Việt Nam. Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ một nghìn năm. Một nghìn năm rất là lâu, nhưng mà mức hấp thụ văn hóa Trung Quốc của chúng ta hần như rất cạn cợt. Chúng ta không có một nền văn hóa Hán học nào cho ra hồn. Trình độ chữ Hán của cha ông chúng ta chỉ ở vào mức độ (classical) Chinese 101. Truyền thuyết rằng cha ông chúng ta hay các cụ đồ Nho giỏi chữ Hán chỉ là một huyên thoại thôi. Dĩ nhiên, họ biết chữ Hán chút nào, nhưng mà không hề đến mức độ như chúng ta tưởng đâu. Các đại Nho trong lịch sử Việt Nam chẳng hạn như Chu Văn An, Lê Quí Đôn gì đó chẳng để lại một tác phẩm nào cho ra hồn. Chúng ta có thể viện cớ là người Trung Quốc phá hoại hay lấy sách của chúng ta mang về xứ họ. Cho là bị chiến tranh tàn phá đi, nhưng mà xem xét những gì còn lại, chúng ta có thể đoán ra được những gì đã mất. Quan sát những ván thuyền trôi dạt vào bờ chúng ta có thể đoán ra hình thức của chiếc thuyền đó. Nhìn cái nền nhà bị cháy còn lại, chúng ta có thể biết đó là một dinh thự hay một túp lều.

Khi tôi còn ở Đại Học Harvard, một trong ba giáo sư cố vấn (academic advisors) của tôi là Giáo Sư Tu Weiming (杜維明). Ông biết là tôi đang viết luận văn về triết học Phật Giáo Ấn Độ, nhưng ông luôn luôn thúc giục tôi là đừng quên Nho Giáo, nhất là Nho Giáo Việt Nam. Tôi nói với ông là Nho Giáo Việt Nam không có văn bản gì hết thì làm sao nghiên cứu. Ông không tin tôi, ông nghĩ tôi viện cớ thoái thác. Đồng ý là Nho Giáo có ảnh hưởng nhiều trong vấn đề quản trị quốc gia (statecraft) và đạo đức xã hội và gia đình ở Việt Nam. Nhưng mà Nho Giáo Việt Nam không hề có triết học hay học thuật gì cả. Các đại Nho của Việt Nam không ai trước tác bình luận hay chú sớ gì về Tứ Thư (四書), Ngũ Kinh (五經) cả. Ông Lê Quí Đôn thì cũng chỉ ghi chép vớ vẩn trong bộ Kiến Văn Tiẻu Lục (見文小錄) của ông thôi. Tôi nhớ trong thời cuối thập niên 60 có phong trào chống đối trường Pháp ở Saigon không hiểu do ai chủ xướng. Học sinh trung học (trong đó có cả trường Chu Văn An nơi tôi đang học) được sách động đến biểu tình rầm rộ, dọa nạt bạo động trước cửa trường trung học Pháp Jean-Jacques Rousseau. Dĩ nhiên, người Pháp đời nào chịu dẹp, họ đành thỏa hiệp đổi tên trường thành Lê Quí Đôn. Nhưng mà làm sao so ông Lê Qúy Đôn với ông Jean-Jacques Rousseau được? Tôi chưa từng bao giờ ái mộ câu “dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.” Tại sao chúng ta phải trung thành với cái chậm tiến của cha ông chúng ta? Nếu ao nhà nó đục thì lấp nó đi, sang tắm ké ao ông hàng xóm hoặc học nơi ông cách đào cách đào ao cho trong. Nhiều người sẽ phản ứng lập tức rằng nói tổ tiên mình chậm tiến là bất kính. Nhưng mà tổ tiên chúng ta hoàn toàn có quyền chậm tiến. Và đã chứng tỏ một cách hùng hồn răng họ chậm tiến. Chẳng lẽ chỉ vì họ là tổ tiên của chúng ta mà họ sợ quê không dám chậm tiến hay sao? Nếu như mình không dám nói, thì “người ngoài” sẽ nói hộ mình. Người Tây phương chẳng hạn, luôn luôn đề cập đến Việt Nam như một quốc gia nghèo, chậm tiến. Đâu có “người ngoài” nào dám gọi nước Anh và nước Pháp là chậm tiến đâu?

Nho Giáo đã bi đát như thế, Phật Giáo cũng không có gì hay ho hơn. Một số nhà sư Việt Nam cứ mải lo chứng minh rằng Phật Giáo truyền sang Việt Nam trước Trung Quốc. Nhưng mà trước sau không quan trọng. Có nhiều người Việt Nam di tản sang Mỹ trước nhưng mà không thành công bằng những người qua sau. So sánh Phật Giáo Việt Nam với Phật Giáo Trung Quốc là diễu dở. Văn hóa Phật Giáo Trung Quốc đồ sộ từ mặt văn bản, học thuật cho đến văn hóa vật chất (material culture). Ngày nay một số kinh văn đã bị mất trong nguyên tác Phạn văn vẫn còn tồn tại trong bản dịch Trung văn. Đại Tạng Kinh bằng Trung văn gồm cả trăm cuốn (in theo kiểu sách hiện đại), mỗi cuốn dày như cuốn từ điển Webster. Còn bộ Việt Nam Phàt Điển Tùng San của Phật Giáo Việt Nam thì chỉ được khoảng chục cuốn sách khâu theo kiểu xưa, mỗi trang khoảng mười hàng chữ mỗi chữ to bằng ngón tay cái. Ngoại trừ bộ Khóa Hư Lục (課虛錄) của Trần Thái Tông (陳太宗) còn có ý nghĩa, mặc dù không có gì là cao siêu. Những cuốn còn lại ghi chép tùm lum không đâu vào đâu. Ngày nay một số tín đồ Phật Giáo Việt Nam lãng mạn hoài cổ tự nhận là tu Thiền Trúc Lâm (竹林) của Trần Nhân Tông (陳仁宗). Nhưng mà Thiền Trúc Lâm là cái gì mới được? Trần Nhân Tông chỉ có bài Cư Trần Lạc Đạo Phú, đại khái theo kiểu Lão Giáo bình dân, rong chơi hưởng nhàn, kiểu ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Còn tổ thứ hai và thứ ba của Thiền Trúc Lâm là hai ông Pháp Loa (法螺) và Huyên Quang (玄光) thì chỉ để lại vài bài thơ vịnh hoa cúc vớ vẩn. Phật Giáo Việt Nam như ngày nay chúng ta quan sát thấy trong các chùa chỉ là một hình thức hết sức bình dân của Phật Giáo Trung Quốc. Quan sát sinh hoạt trong các chùa Việt Nam, chúng ta thấy đại khái chỉ tập trung vào việc tụng kinh. Tụng Chú Đại Bi, Phổ Môn Phẩm (trong Kinh Pháp Hoa) hay Kinh A-Di-Đà, và một số bài khấn nguyện bịa đặt ra, thờ phượng các Phật và Bồ-tát siêu nhiên (celestial) chẳng có liên hệ gì đến Phật Thích-ca Mâu-ni (Shakyamuni). Nói tóm, chúng ta không hề thấy một chút dấu tích nào của nền Phật Giáo bác học Trung Quốc trong suốt lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Thỉnh thoảng chúng ta thấy có các chùa có tên như Chùa Pháp Hoa, Chùa Hoa Nghiêm có lẽ như một ngưỡng vọng. Tôi có kinh nghiệm răng đa số các nhà sư trong các chùa đó cũng chẳng biết Trí Khải (智顗), Đỗ Thuận (杜順) hay Trí Nghiễm (智儼) là ai hoặc Thiên Tai Tông (天台宗) và Hoa Nghiêm Tông (華嚴宗) đại khái là gì.

Bây giờ chúng ta quay sang một trăm năm đô hộ giặc Tây. Một trăm năm không lâu bằng một ngàn năm, nhưng mà cũng là lâu. Suốt một trăm năm đó chúng ta hầu như cũng không học được gì nhiều lắm từ người Pháp. Không thấy có một nền văn học bằng tiếng Pháp của các tác gia Việt Nam. Người Pháp đô hộ Việt Nam, biến Việt Nam thành thuộc địa để bành trướng thế lực của họ. Tuy nhiên, họ cũng cố đào luyện một giới trí thức để làm việc cho họ. Dạy tiếng Pháp cho người Việt giản tiện hơn là họ phải học tiếng Việt. Người Pháp ít ra cũng lập đại học ở Việt Nam. Họ sáng lập Đại Học Hà Nội năm 1902, Trường Viễn Đông Bác Cổ (L’école francaise d’extrême orient) năm 1900 để bảo tồn các sách vở về văn hóa Việt Nam. Họ cũng nghiên cứu văn hóa Việt Nam một cách đúng đắn và đào tạo một số học gỉa Việt Nam biết nghiên cứu theo phương pháp bác học. Ví dụ điển hình là ông Trần Văn Giáp với tác phẩm “Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIe siècle.” Có thể nói đây là nghiên cứu đúng đắn bác học đầu tiên về Phật Giáo Việt Nam. Sở dĩ ông Giáp làm được việc này vì ông học với những bậc thầy người Pháp. Ông cũng được du học Pháp hai năm và có được học với chuyên gia Ấn Độ học lừng danh là Sylvain Lévi, tuy rằng ông không học về Ấn Độ học. Ngoài ra tôi cũng có biết một số bài viết về văn hóa Việt Nam bằng tiếng Pháp của một số học giả Việt Nam theo phương pháp nghiên cứu của Tây phương. Không ai thích bị đô hộ cả, nhưng mà nhiều khi mình phải biết lợi dụng cơ hội để học hỏi. Người Ấn Độ vì bị Anh Quốc đô hộ, họ học được Anh ngữ. Nhờ đó mà ngày nay văn hóa Ấn Độ được cả thế giới biết đến. Đâu ai có hơi sức để mà đi học hàng tá thổ ngữ Ấn để nghiên cứu văn hóa Ấn Độ? Tóm lại nếu không có hai thằng giặc này thì hiện giờ mình cũng chắc không khá gì hơn bộ lạc Pygmy.

Khi tôi còn học trung học đệ nhất cấp vẫn có giờ Hán văn hàng tuần. Tôi còn nhớ có ông đồ Nho mặc áo dài đen mỗi tuần cắp ô đến dạy mấy tiếng. Nhưng mà học sinh không đứa nào muốn học. Rốt cuộc chương trình Hán văn cũng dẹp tiệm. Thời tôi lớn lên kể như ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc cũng phai nhạt dần đi với việc dẹp bỏ học Hán văn. Chữ quốc ngữ lại được dùng mẫu tự La Tinh, Mất đi chữ Hán Việt Nam cũng dần dần xa rời nền văn hóa Đông Á (East Asia) dựa trên Trung Quốc (China-based). Tuy rằng ở phân khoa văn khoa Đại Học Saigon cũng như Đại Học Vạn Hạnh có dạy Trung văn và triết học Trung Quốc, nhưng mà cũng rất sơ đẳng và số học sinh* biết chữ Hán cho ra hồn cũng rất hiếm hoi. Điều này cũng tiêu biểu cho cái đặc tính Việt Nam, cái gì cũng có nhưng mà chỉ nông cạn thôi. Thuở xưa triều đình Trung Quốc có “Quốc Tử Giám”, Việt Nam cũng có “Quốc Tử Giám”. Nhưng mà chúng ta không có một khái niệm nào về các sinh hoạt của “Quốc Tử Giám” ở Việt Nam cả. Một người sống ở Việt Nam thời đó sẽ nhận thấy rằng Việt Nam không có gì giống một xứ đã là thuộc địa của Pháp một trăm năm cả. Lý do tại sao Việt Nam không hấp thụ được nền văn hóa bác học của Trung Quốc và Pháp. Tôi nhớ ông bạn quá cố mà tôi hay thảo luận vấn đề với bạn và ông đưa ra một nhận đinh tôi nghĩ là có lý rằng “Việt Nam không có “institutions”, tức là không có đủ cơ sở để hấp thụ những thứ này. Đại khái cũng có những cá nhân học được chút gì, nhưng mà chúng ta không có một tầng lớp trí thức lớn đủ để thành lập một thứ cơ sở nào cả.

[*Tôi đề nghị dùng từ học sinh 學生 thay vì sinh viên 生員. Người Trung Quốc và Nhật Bản, đều dùng chữ học sinh 學生 (xuesheng, gakusei), học sinh trung học, học sinh đại học. Chữ sinh viên 生員 hơi lỗi thời và không có ý nghĩa trong thời hiện đại. Sinh viên có nghĩa là các học viên chuẩn bị thi để vào làm việc cho triều đình thời xưa ở Trung Quốc. Cũng vậy cả người Trung Quốc và Nhật Bản đều dùng từ bác sĩ để dịch chữ PhD (Doctor of Philosophy) 哲學博士 triết học bác sĩ, zhexue boshi (Trung), tetsugaku hakase (Nhật). Người Việt Nam vẫn bướng bỉnh dùng từ tiến sĩ, một từ rất xưa mà ngay cả người Trung Quốc cũng không dùng nữa.]

Ngườ Pháp soạn thảo chương trình giáo dục theo khuôn mẫu của họ. Đó là bước đầu của triết học Tây phương ở Việt Nam. Theo đó thì học sinh lớp đệ nhất tức là lớp 12 bắt đầu học triết. Lúc tôi học trung học ở Việt Nam thì bắt đầu học triết vào lớp đệ nhất. Lúc đó triết được chia làm ba bộ môn: siêu hình, tâm lý và luận lý. Tôi không biết rõ mấy ông thầy dạy triết thuở đó khả năng chuyên môn và bằng cấp của họ ra sao. Tôi cũng còn nhớ thuở đó ông nhà thơ Nguyên Sa, tên thật là Trân Bích Lan, ông khai là du học Pháp, đậu bằng Cử Nhân Triết. Ông về Saigon mở trường dạy triết rất là đắt khách. Tôi và một hai người bạn cũng đi học thêm. Lúc đó đa số học sinh ngoại ngữ rất kém (đây là do lỗi lầm lớn của lứa cha ông thầy bà thuở đó), lại không có sách giáo khoa, vào nghe ông giảng rồi chép lại. Tôi còn nhớ ông tung ra một số tên như Descartes (đương nhiên rồi), Nicolas Malebranche, Auguste Comte (không có lý do gì để một số học sinh Việt Nam không biết ngôn ngữ gì khác ngoài Việt ngữ, có thể một chút ít ỏi Anh ngữ, mà có thể lãnh hội triết của Malebranche và Auguste Comte được). Bởi vì Việt Nam là nước nghèo thiếu nhân lực tài lực cho nên một người đậu Cử Nhân triết đi dạy triết. Một số người phản ứng nói với tôi thời đó người ta chỉ biết tới đó. Nhưng mà đó là “thời đó” của Việt Nam, không phải của các nước văn minh Âu châu. Lúc đó cũng là vào những năm 60, 70 trình độ trí thức của các xứ này cũng đã hết sức cao cường rồi. Bây giờ chúng ta may mắn được học hỏi nhiều hơn thừa biết rằng người có bằng Cử Nhân triết, kiến thức về triết cũng chẳng có bao nhiêu.

Do vì ảnh hưởng của Pháp, cho nên bao nhiêu năm nay người đa số mhững người Việt Nam có để ý hoặc có học chút đỉnh về triết vẫn nghĩ rằng triết chỉ là triết học lục địa (continental). Trong thời gian này thì ảnh hưởng Pháp hầu như đã không còn bao nhiêu. Tôi không học Đại Học Văn Khoa Saigon, cho nên tôi không biết những người dạy triết Tây ở đó là ai. Có hai ông nổi đình nổi đám thời đó là ông Nguyễn Văn Trung và ông Lê Tôn Nghiêm. Cả hai ông đều du học Bỉ, một ông (Nguyễn Văn Trung) viết luận văn về Phật Giáo rồi về Việt Nam dạy triết Tây. Một ông (Lê Tôn Nghiêm) thì viết luận văn về Lão Tử (mặc dù không biết Trung văn) rồi cũng về Việt Nam dạy triết Tây, cũng nói huyên thuyên về Heiddeger. Nhưng dù sao hai ông này cũng có đi học đại học. Thuở đó ở Saigon ngành nhân văn (humanities) rất là bát nháo, vô tổ chức. Trường ốc nghèo nàn, sách vở thiếu thốn thành ra mạnh ai nấy học, không có liên tục hay mạch lạc gì cả. Bên Mỹ mỗi khóa học (semester) thông thường là 15 tuần. Giáo sư phải soạn giáo trình (syllabus) cho khóa học, chỉ định sách phải đọc (required) và sách đề nghị đọc thêm (recommended). Đại học nào cũng có nhà sách. Thời tôi học Đại Học Vạn Hạnh, mỗi khóa may lắm chỉ có một cuốn cua (cours) do ông giáo sư soạn, thường thì khoảng trên trăm trang đánh máy rồi in lại bằng cách gọi là roneo rất là luộm thuộm. Tôi nhớ lớp Triết Học Trung Quốc. Ông giáo sư vào lớp cầm cuốn lịch sử triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan (馮友蘭) rồi đọc lại cho học sinh chép. Người bạn của tôi nói đùa là giờ chính tả. Thậm chí không có cuốn cours và không có giáo trình. Ông giáo sư dạy tới đâu hay tới đó.

Cũng có những người học ở Đại Học Văn Khoa nói tôi chuyên về Kierkegaard, tôi chuyên về Kant, vân vân. Nhưng mà có từng đó ông giáo sư thôi, làm sao mà mỗi ông có thể thập bát ban võ nghệ như thế được? Ở Mỹ có 2,828 đại học 4 năm. Đại khái đại học nào cũng có phân khoa triết. Mỗi phân khoa có các giáo sư với chuyên môn khác nhau. Nếu một người muốn xin vào chương trình PhD với dự định muốn viết luận văn về Kiekegaard thì phải chọn đại học nào trong đó phân khoa triết có chuyên gia về Kierkegaard. Nếu không không bao giờ được nhận vào học bởi vì không ai đủ khả năng làm giáo sư hướng dẫn (academic adviser) cho mình. Thiền Tông chủ trương truyền thừa, nhưng mà sự thật có hay không khoan nói. Triết học Tây phương thật sự có truyền thừa. Những triết gia học giả chuyên về Heidegger ở Âu Châu nếu không là môn đồ trực tiếp của Heidegger thì cũng là môn đồ của môn đồ của Heidegger. Dĩ nhiên ai cũng có quyên học về Heidegger. Nhưng mà nếu mình không ở trong dòng truyền thừa đó, mình có thể là một ông giáo sư quèn (two-bit professor) đi dạy triết ở mấy đại học trung bình thôi, mình khó được xem là trong truyền thống Heidegger. Bên Mỹ cũng vậy, Quine hay David Lewis chẳng hạn cũng có những môn đồ chính truyền. Wittgenstein cũng vậy. Các giáo sư triết ở các đại học có thanh thế của Mỹ đều thường là môn đồ truyền thừa của các triết gia lớn. Giáo sư hướng dẫn của David Chalmers là Douglas Hofstadter, triết gia lừng danh của Đại Học Indiana.

Khoảng giữa các năm 60 đột nhiên xuất hiện ông Phạm Công Thiện, tự nhận là thiên tài, tự xưng là chuyên viên về Heidegger. Ông viết tùm lum tà la. Không đọc được chữ Hán, không biết gì hết về lịch sử Trung Quốc, hoàn toàn no idea về các nghiên cứu liên hệ đến Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma) của các học giả Phật Giáo cả người Mỹ và người Nhật Bản, mà cũng bạo gan viết sách về Bồ-đề-đạ-ma lại còn gọi ông này là thiên tài. Thiệt ra thì lúc đó tôi có biết một vài người ở Đại Học Văn Khoa cũng nghiên cứi Heidegger một cách đàng hoàng đứng đắn hơn. Nhưng mà như tôi đã đề cập, lúc đó ở Việt nam không có một nền tảng nào về triết học Đức, không dưng tự đâu đó bứng ông Heidegger ra khỏi cái bối cảnh văn hóa, xã hội, ngôn ngữ, triết học Tây phương rồi nói nhăng nói cuội. Người đi học điều đầu tiên được dạy là khi mình nghiệm xét một phát biểu, một ý niệm nào đó mình phải nhìn nó trong bối cảnh lịch sử và văn hóa của nó. Một số người Việt Nam bắt chước ông PCT thích trích dẫn lời của các triết gia hay văn nghệ sĩ Đức như Goethe, Hölderlin, Heine, Rilke, vân vân. Điều đầu tiên mình phải nhận thức được là những người này, nhất là Rilke, tư tưởng của họ chịu ảnh hưởng sâu đậm của Thiên Chúa Giáo. Tôi không ngụ ý điều này là hay hoặc dở, chỉ nêu ra dữ kiện thôi. Không thể nào không biết dữ kiện này, trích một bài thơ hay vài câu thơ dịch của Rilke ra để show off là điều hết sức khôi hài.

Ông PCT lúc đó còn trẻ tuổi khoảng ngoài 20. Ông cũng thích rải tên và kê khai. Ông nói ông học tiếng Đức, tiếng Tây-ban-nha, tiếng Ý, này nọ. Có ý thích học ngoại ngữ cũng là một điều đáng khuyến khích. Nhưng mà chúng ta cũng nên động não một chút. Ông mới ngoài 20 lại viết báo, thích bù khú nhậu nhẹt. Thì giờ đâu ra để học một ngoại ngữ hay một triết học nào đến một trình độ cao (advanced)? Ở một xứ chậm tiến, người ta hay thích chuyện hoang đường. Tôi từng nghe đồn đãi rằng ông Bùi Giáng tự học tiếng Đức ba tháng rồi đọc sách Heidegger. Nên nhớ lúc đó sách vở khan hiếm, tự điển bằng giấy, không có internet tiện lợi như bây giờ. Dĩ nhiên, tôi không chối bỏ rằng nếu mình may mắn có chút phương tiện và có ý chí thì mình cũng có thể học được đến mức nào.

Một dữ kiện tôi luôn luôn nhấn mạnh là ngôn ngữ. Ngôn ngữ không phải là một công cụ thụ động để biểu đạt tư tưởng con người. Ngôn ngữ giữ một vai trò cốt yếu trong việc đóng góp vào cách suy nghĩ của một nền văn hóa hay một dân tộc. Các học giả Mỹ thường nhận xét rằng có cái gì đó trong Đức ngữ khiến người Đức hay suy nghĩ thần học (theology). Trên một nghĩa nào đó, triết học Đức nhuốm nặng tính chất tôn giáo. Vấn đề người Việt học triết Đức cũng không giản dị như người ta nghĩ giả dụ là nước Việt Nam hùng cường có đại học như đại học Mỹ đi nữa. Vấn đề đầu tiên chúng ta phải đối trị với là sự dị biệt giữa tiếng Việt và tiếng Đức. Trong vấn đề này Bruno Snell, tác giả cuốn sách Die Entdeckung des Geistes (Sự Khám Phá ra Tâm Thức)* đưa ra một nhận định mà chúng ta cần lưu ý: “Ai muốn giải thích các tư tưởng được ghi lại bằng một ngôn ngữ khác phải lưu ý thấy rằng, cái từ ngoại quốc kia có nghĩa như vầy trong Đức ngữ, và rồi nó không có nghĩa như thế. Cái ngoại ngữ kia càng xa lạ với chúng ta cái nan giải của chúng ta càng lớn hơn và khoảng cách của chúng ta càng xa hơn với tinh thần của nó .” (Wer Gedanken erklären will, die in einer anderen Sprache niedergelegt sind, wird festellen: das fremde Wort bedeutet dies im Deutschen – und bedeutet es wieder nicht. Solche Dilemma wird desto größer, je fremder uns die andere Sprache und je weiter unser Abstand von ihrem Geist ist.)

[*Cuốn sách này nói về Geist trong triết học Hi Lạp. Không ai dám bạo gan dịch chữ Geist trong văn hóa hay triết học Đức].

Heidegger viết bằng một thứ tiếng Đức rất đặc thù của ông. Tôi có cảm giác ông nghĩ mình là một tiên tri hay thi sĩ gì đó hơn là triết gia. Ông chủ trương đối thoại với cổ Hi Lạp và thi ca Đức nhất là thơ của Hölderlin. Trong cuốn Was heißt Denken? (Suy tư là gì?), ông trích một câu thơ của Hölderlin để giải thích về con người: ”Ein Zeichen sind wir, deutunglos…” (Chúng ta là một dấu hiệu chưa được giải thích…). Trong cuốn Aus der Erfahrung des Denkens (một cuốn sách chỉ vỏn vẹn 27 trang) gồm những phát biểu ngắn của ông, cũng có thể là những câu thơ hết sức bí hiểm. Chẳng hạn như “Die Dichtungscharacter des Denkens is noch verhüllt” (đặc tính thi ca của tưởng cũng vẫn còn bị ẩn khuất). Heidegger từng phát biểu rằng nước Đức là ursprünglich tức là nguyên thủy. Về mặt địa lý và chính trị Đức là trung tâm của Âu châu và thế giới. Theo Heidegger thì Đức là suối nguồn của một sự tái sinh của Âu châu, một quốc gia có một định mệnh độc đáo trong vai trò thế giới. Tinh thần quốc gia của Heidegger cũng gắn chặt với ngôn ngữ. Ông tin rằng tiếng Đức là một di sản độc đáo, trực tiếp của tiếng Hi Lạp. Ngôn ngữ Hi Lạp là ngôn ngữ nguyên sơ, cội nguồn nhất của Âu châu, và Đức ngữ là hậu duệ trực tiếp của tiếng Hi lạp. Heidegger xem đây là một lợi thế vì người Hi Lạp cổ thời đã không quên về Sein/Being. Sự liên hệ trực tiếp về mặt ngôn ngữ này là một tài sản quốc gia của người Đức, cái đặc quyền tiếp cận kinh nghiệm về Sein/Being của Hi Láp. Nhưng mà nói chung đọc sách của Heidegger không phải là một việc giản dị. Suy tư của ông có ý nghĩa gì hay không không phải là việc tôi có thẩm quyền phán xét. Triết gia Mỹ Alexander Rosenberg của Đại Học Duke từng phát biểu rằng, đa phần thì mình không biết Heidegger muốn nói gì, nhưng khi mình biết ông muốn nói gì thì ông sai bét. Tôi không biết là nhận xét này có khắt khe lắm không. Có điều cái chuyện Heidegger phò Nazi là một sự kiện đã được nghiên cứu cặn kẽ (well-documented). Một số bài diễn thuyết của ông cho giới trẻ sặc mùi Nazi, cũng hồ hởi phấn khởi gọi Hitler là Führer (lãnh tụ).

Heidegger có từng tuyên bố rằng không hề có một triết học Heidegger. Tất cả các nỗ lực của ông chỉ là để khảo xét ý niệm Sein. Ông cung hiến nguyên tác phẩm Einführung in die Metaphysik để suy tư về vấn đề này. Ông mở đầu cuốn sách: “Warum ist überhaupt Seiendes und nicht vielmehr Nichts? Das is die Frage. Vermutlich is dies keine beliebige Frage ”Warum ist überhaupt Seindes und nicht vielmehr Nichts?“ – das is offentsichtlich die erste aller Fragen. Die erste, freilich nicht in der Ordnung der zeitlichen Aufeinanderfolge der Fragen.” (Tại sao phải các sự vật lại là (hiện hữu) thay vì không có gì hết? – Đây là câu hỏi. Có thể đây không phải là một câu hỏi võ đoán. Tại sao sự vật lại là thay vì không có gì hết? – Đây hiển nhiên là câu hỏi đâu tiên của các câu hỏi. Dĩ nhiên, đầu tiên không là theo trật tự của liên tục thời gian của câu hỏi). [Các bản dịch Anh ngữ sách Heidegger thường dịch Sein là Being và Seiende là beings. Ở đây Heidegger dùng từ Seiendes có thể xem như có ý nghĩa là các sự vật hiện hữu. Chúng ta có thể là các sự vật hiện hữu]. Sein đối với ông có nghĩa tương tự như chữ “là” trong Việt ngữ. Nhưng mà cái chữ là này hơi nôm na quá, cho nên có thể dịch Sein sang Việt ngữ là hiện hữu và Seiendes là hiện thể? Trong cuốn sách này Heidegger bài xích khoa học và kỹ thuật như những gì cản trở kinh nghiệm về Sein. Nỗ lực của ông chỉ là khảo xét tất cả mọi khía cạnh của khái niệm Sein. Nói tóm, trước năm 75 ngoài một vài người lẻ tẻ với những căn bản học vấn khác nhau đọc và viết loạn xạ về Heiddegger y như thể là chúng ta có thể giải thích Heidegger một cách thỏa đáng bằng Việt ngữ, không có một nền tảng trường sở nào về triết học Đức hoặc Heiddgger cả.

Heidegger là câu truyện của hơn nửa thế kỷ trước đây. Trong hơn nửa thế kỷ vừa qua nhiều biến cố lịch sử lớn lao xảy ra, nhưng mà học thuật về ngành nhân văn (humanities) ở Việt Nam nhất là miền Nam, nói chính xác hơn là Saigon có gì tiến bộ, có gì lạ không em, tôi không phải là người theo rõi kỹ lắm. Vô tình gần đây thấy có sự lưu ý đến triết gia Anh gốc Áo (Austrian) Ludwig Wittgenstein, nhất là chung quanh cuốn Tractatus logico-philosophicus của ông. Hình như gần đây còn có bản dịch tác phẩm này ra Việt Ngữ. Wittgenstein là người Áo không phải người Đức, mặc dù người Áo cũng nói tiếng Đức. Dường như nước Đức có vẻ gì mê hoặc đối với một số trí thức Việt Nam. Chắc là ngôn ngữ và văn hóa của họ có vẻ exotic. Người Đức có văn hóa cao, thích văn chương nghệ thuật. Đa số các văn thi sĩ lớn của họ kể cả Goethe đều có hiểu biết sâu xa về khoa học. Ngay cả nhạc sĩ như Johann Sebastian Bach cũng vậy Họ lại thường thông thạo về ngành luật. Tôi không phải là một fan lớn của văn hóa Đức. Tôi cũng không quên là rất gần đây người Đức đã phạm một tội ác lớn lao nhất trong lịch sử nhân loại.

Xin trở lại với Wittgenstein. Là một người thích học triết, đương nhiên tôi cũng có từng lưu ý đến ông. Nhưng mà có cái gì không “click”. Thứ nhất tôi không thích cách viết của ông. Ông không viết luận văn mà chỉ tung ra từng phán ngôn ngắn giống như thể loại sūtra (kinh) của Ấn Độ cổ thời. Thời xưa người Ân làm như vậy được bởi vì họ không viết mà chỉ học thuộc lòng. Thứ hai, ông không có kiến thức sâu rộng lắm về triết học nói chung. Thứ ba tôi không hề ái mộ triết học xoay chung quanh vấn đề ngôn ngữ. Cuốn sách đầu tiên tôi đọc về Wittgenstein là cuốn Wittgenstein: A Memoir của Norman Malcolm cách đây đã mấy chục năm rồi. Theo như Norman Malcolm thì Wittgenstein là người rất eccentric, mình có thể nói nôm na là lập dị. Ông sống rất giản dị, văn phòng ông ở Đại Học Cambridge không có kệ sách, không có trang hoàng gì nhiều. Theo Malcolm thì Wittgenstein rất thân thiện và rất tốt. Thỉnh thoảng ông còn giúp Malcolm chút ít về tài chánh. Wittgenstein là một người đàn ông gay (tôi không ngụ ý điều này là xấu), ông thich đọc tạp chí trinh thám (detective). Malcolm nói sau khi về Mỹ thỉnh thoảng ông cũng gửi tạp chí loại này cho Wittgenstein.

Đồng thời Wittgenstein cũng là một hết sức nhạy cảm, tự kỷ trung tâm và tự cho mình là có quyền (entitled). Triết gia Stephen B. Schwartz có nhận xét đại khái như sau về cuốn Tractatus: Phong cách của Wittgenstein trong Tractatus là chỉ tuyên dương hầu như một cách khinh bạc. Người ta hoặc là “hiểu” rồi hoặc chấp nhận các khẳng quyết của ông hay là không hiểu, không hề có biện minh hay thảo luận gì để giúp người đọc cả. Tính khí của ông lại không có gì giống với các thành viên của nhóm Vienna Circle hoặc như đa số các triết gia khác. Triết gia có thể tranh cãi với nhau kịch liệt. [Ở Mỹ cách đây mấy chục năm có tranh cãi kịch liệt giữa một bên là John Searle của Đại Học Berkeley và một bên là Daniel Dennett và David Chalmers. Ông già gân Searle mắng chửi hai ông kia thậm tệ. Tôi không hiểu sau đó họ có còn giao dịch với nhau nữa không]. Giới học thuật xem sự tranh cãi chính là cái đóng góp cho sự tiến bộ của triết học. Wittgenstein có vẻ giống một tiên tri mà các phát ngôn của ông phải được suy tư và thán phục trong yên lặng. Dĩ nhiên điều này làm nhiều triết gia khó chịu. Ngay cả Rudolf Carnap, một nhân vật chính yếu của nhóm Vienna Circle cũng không hòa thuận với Wittgenstein mặc dù ông chấp nhận nhiều ý tưởng của Wittgenstein trong Tractatus. Wittgenstein từng gặp gỡ nhiều thành viên của nhóm này. Nhưng mà Wittgenstein từ chối không chịu gặp Carnap. Trong tự truyện của ông, Carnap tường thuật về Wittgenstein như sau:

“Quan điểm và thái độ của Wittgenstein đối với con người và các vấn đề, ngay cả các vấn đề lý thuyết, giống một nghệ sĩ sáng tạo hơn là một khoa học gia; thậm chí người ta có thể nói, giống như một tiên tri tôn giáo. Khi ông bắt đầu hình thành quan điểm của ông về một vấn đề triết học đặc thù nào đó, chúng ta thường cảm thấy sự phấn đấu nội tâm xảy ra trong ông ngay lúc đó, một phấn đấu bằng vào đó ông nỗ lực để thâm nhập từ bóng tối vào ánh sáng trong một sự căng thẳng gian truân và đau đớn biểu lộ rõ rệt trên khuôn mặt biểu cảm của ông. Khi cuối cùng, thường là sau một nỗ lực khó khăn lâu dài, phát biểu của ông đứng trước mặt chúng ta như một tác phẩm nghệ thuật mới được sáng tạo, như một mặc khải thánh thượng.” (Schwartz, tr. 51). Ngay cả Russell là người rất hỗ trợ Wittgenstein mà cũng phải nói rằng Wittgesstein tự xem mình là tiên tri và tung ra ý kiến của ông như thể sắc lệnh của nhà vua. .

Quan điểm thông thường thì Gottlob Frege là tiên phong, Bertrand Russell là cha đẻ của triết học phân tích (analytic philosophy),* các trước tác của Wittgenstein là xương sống. Theo cách diễn tả của Schwartz đây là một thứ xương sống rất èo ọt.. Bertrand Russel xuấr bản hơn chục cuốn sách về triết học suốt cuộc đời ông, và hàng trăm luận văn. Wittgenstein chỉ xuất bản độc một cuốn Tractatus, và như đã đề cập sau đó ông chối bỏ tác phẩm này. Không lâu sau khi Wittgenstein mất vào năm 1951, một sưu tập các ghi chép của ông được xuất bản dưới tựa đề Philosophische Untersuchungen/Philosophical Investigations, cũng là những phát biểu hay ghi chú rời rạc được ghi chép lại bởi các môn đồ của ông. Mặc dù những phát biểu này được đánh số thứ tự, nhưng không có nghĩa là chúng có liên hệ liên tục thứ tự với nhau. Cũng giống nghư các trước tác khác của Wittgenstein, việc đánh số này chỉ là một cách võ đoán bởi các môn đồ của ông.

[*Nói một cách hết sức phổ quát, triết học Tây phương có hai truyền thống chính: phân tích (analytic) và lục địa (continental). Triết học phân tích phát triển ở Anh và Mỹ quốc cho nên cũng được gọi là Anglo-American philosophy. (Michael Dummett trong cuốn Origins of Analytical Philosophy có ý kiến khác và phê bình khắt khe quan điểm này). Triết học lục địa có tính chất suy niệm (contemplative) phát triển ở Âu Châu. Triết học phân tích không có suy tư về Sein hay Being. Không có gì là Being cả. Triết gia Mỹ Quine, chẳng hạn, nói rằng, chỉ có mộ hoa hồng màu đỏ, hay một hoàng hôn màu đỏ, không có cái đỏ (phổ quát nào làm chúng đỏ cả). Betrand Russell nói một cách ngắn gọn rằng suy tư triết học của ông bắt đầu từ những cái nhỏ. Không thoạt nhiên suy tư ngay về cái toàn diện. Triết học Phật Giáo và đa số triết học Ấn Độ thiên về loại triết học phân tích. Triết học Ấn Độ cũng có từ sattā có nghĩa tương đương với Being hay Sein. Nhưng mà các triết gia Phật Giáo và Ấn Giáo không suy tư về sattā kiểu như Heidegger suy tư về Sein. Sattā chỉ là một padārtha (sự vật) thuộc về phạm trù sāmānya (phổ quát). Triết học Phật Giáo đã là analytic trước Russell hàng bao nhiêu thế kỷ.]

Hai cuốn sách này được xem gần như là kinh điển giữa các triết gia phân tích, nhưng mà không hẳn là không có người hoài nghi và nhiều người còn xem thường hay thậm chí chối bỏ. Ngay cả nhóm Vienna Circle cũng xem Tractatus là căn bản. Đây là một tập sách ngắn và không hề có biện luận hay giải thích gì cả. Sách được viết theo kiểu sấm ngôn. Như đã đề cập, Tractatus viết tựa như loại sūtra (kinh) của văn hóa cổ thời. Nhưng mà lúc đó đã là thế kỷ 20 rồi. Sở dĩ thuở đó người Ấn Độ làm như thế vì họ không viết. Tất cả chỉ do khẩu truyền. Nhưng mà các sūtra đều có chú sớ (bhaṣya), rồi lại có chú sớ về chú sớ (ṭīkā) giải thích từ nghĩa và những khúc mắc về cú pháp. Một trong các lý do mà tôi không hề là fan của Wittgenstein vì tôi chán phải làm thầy bói đoán mò xem ông muốn nói gì. Ví dụ để phê bình văn học, Umberto Eco, chẳng hạn, phải viết một số sách. Còn Wittgenstein thì chỉ phán vài câu trong cuốn Culture and Value của ông, thế ra thiên hạ xúm đầu vào cho đó là phê bình sâu sắc về văn hóa và nghệ thuật. Biết bao nhiêu các nhà tâm lý học, sinh vật học, sinh vật học tiến hóa, thần kinh hệ học, viết không biết bao nhiều sách để tìm hiểu không biết loài thú có tâm thức hay không. Wittgesntein chỉ phán vài câu, rồi Michael Dummett, triết gia Anh Quốc hàng đầu của triết học phân tích cũng hết sức tán tụng. Chúng ta cũng nghe nói về tâm lý học Wittgenstein. Đừng nói là sách, thậm chí ông cũng không có một luận văn nào với lý luận mạch lạc về tâm lý học. Lại cũng phải đi mót các sấm ngôn rời rạc trong các ghi chú của ông rồi cố nặn óc để giải thích là thâm sâu. Wittgenstein là một triết gia không biết viết luận văn. Bên Tây phương, nhất là bên Mỹ, đôi khi một vài triết gia cũng đứng ra mời các triết gia chuyên môn về một đề tài nào đó viết luận văn đề đăng trong một tuyển tập. Nếu họ mời Wittgenstein chắc là ông cũng chỉ quẳng cho họ một vài sấm ngôn của ông thôi.

Trở lại với nhận xét của Stephen P. Schwartz rằng Tractatus của Wittgenstein là một thứ xương sống èo ọt (đừng quên rằng Schwartz cũng rất ái mộ Wittgenstein). Tôi thấy với tư cách là một người được xem là một trong các sáng lập viên của triết học phân tích, Wittgenstein mở đầu Tractatus của ông bằng những phát biểu rất lạ lùng. Các triết gia phân tích Anh Mỹ cũng như các triết gia Phật Giáo và một số triết gia Ấn Giáo cổ thời thường đặt sự suy tư của họ về thế giới và trên một nền tảng bản thể luận (ontology) xoay chung quanh câu hỏi “cái gì hiện hữu?”, what exists?, có nghĩa là cái gì hiện hữu một cách cứu cánh (ultimately). Nhìn chung quanh mình chúng ta nhận thấy rất nhiều sự vật, cao ốc, bàn ghế, núi non, đủ thứ những sự vật mà các triết gia phân tích gọi là medium-sized objects, các sự vật mà chúng ta có thể tri giác được bằng cảm quan và có thể tương tác (interact) với chúng. Nhưng mà những sự vật này không thường hằng và luôn luôn biến đổi. Chúng có thể được thu giảm thành những cấu thể không thể rút gọn được nữa (irreducible constituent elements). Bản thể luận bao gồm các cấu thể này và sự liên hệ giữa chúng. Triết gia Anh Peter Strawson viết trong cuốn Analysis and Metaphysics:An Introduction to Philosophy: “… công việc chính của triết gia là trả lời câu hỏi siêu hình học hay bản thể luận: cái gì là những loại sự vật quan trọng nhất hiện hữu, hay được biết là hiện hữu, và chúng liên hệ với nhau ra sao?” Như đã đề cập đây cũng là câu hỏi chính yếu của bản thể luận Phật Giáo và Ấn Giáo. Đương nhiên là cách tiếp cận của họ dị biệt với nhau. Đây là cái mà triết gia Mỹ John Heil gọi là “the universe as we find it”. Triết gia Mỹ Quine nhật xét rằng đây là câu hỏi căn bản nhất của con người, không thuộc về một nền văn hóa nào cả.

Trở lại với các phát biểu mở đầu Tractatus của Wittgenstein:


  1. Die Welt is alles, was der Fall ist.

Thế giới là tất cả những gì là sự trạng.


    1. Die Welt ist die Gasamtheit der Tatsachen, nicht der Dinge.

Thế giới là tổng thể các sự kiện, không phải sự vật.

1.1.1. Die Welt is durch die Tatsachen bestimmt und dadurch, dass es alle Tatsachen sind.

Thế giới được qui định bởi các sự kiện, bằng vào đó tất cả các sự kiện có.

1.1.2. Denn die Gesamtheit der Tatsachen bestimmt, was der Fall ist, und auch was alles nicht der Fall ist.

Vì tổng thể các sự kiện qui định qui định sự trạng là gì và luôn tất cả những cái không phải là sự trạng.*

[*Tất cả các trích dẫn từ Tractatus đều theo Ludwig Wittgenstein, Tactatus Logico-Philosophicus. München, Anaconda 2022].

Trước tiên, chúng ta nhận thấy rằng Wittgenstein khởi sự không có gì giống với bản thể luận của các triết gia phân tích khác. Thế giới của ông đã bao gồm các phức thể rồi, chẳng hạn như các sự kiện. Thế giới “die Welt” của ông có vẻ giống như Life world (thế giới sông) theo kiểu hiện tượng luận xã hội của Alfred Schütz, thế giới của kinh nghiệm sống (lived experience)? Chữ Fall có nghĩa là case/trường hợp. Tôi nghĩ mệnh đề 1.1.2 tiên dự mệnh đề 5.6 Die Grenzen meiner Sprache bedeuten die Grenzen meiner Welt (Các giới hạn của ngôn ngữ của tôi có nghĩa là các giới hạn của thế giới của tôi).

Không ai biết rõ về Wittgenstein hơn Bertrand Russel. Có thể nói Russell là người “lăng xê” Wittgenstein. Sở dĩ như vậy là vì Russell muốn phát triển triết học toán (mathematical philosophy) mà Wittgenstein lại biết toán cho nên Russell hết lòng hỗ trợ ông. Russell nói ảnh hưởng của Wittgenstein đến với ông bằng hai luồng. Luồng thứ nhất là trước Thế Chiến Thứ Nhất, luồng thứ hai là ngay sau Thế Chiến khi Wittgenstein gửi cho ông bản thảo tập Tractatus, Russell nói thêm là ông không có lý thú gì với các tư tưởng của Wittgenstein trong tập Philosophical Investgations. Russell cũng thuật lại rằng Wittgenstein cực lực chối bỏ giải thích của người khác về các lý thuyết của ông.* Giống y như một thanh thiếu niên (teenager), Wittgenstein luôn luôn than là không ai hiểu ông. “Nobody understands me”. Ai có con trong tuổi teenager cũng từng nghe tuyên ngôn này.Thật ra thì Wittgenstein nói chỉ có F. P. Ramsey là người duy nhất hiểu tư tưởng của ông. [Frank Plumton Ramsey, triết gia, toán học gia, kinh tế gia, có đóng góp quan trọng cho cả ba ngành này. Đáng tiếc là ông mất lúc mới 26 tuổi]. Cho nên từ đó trở đi không ai hiểu Wittgenstein nữa. Điều này hết sức oái oăm. Wittgenstein nói rằng chỉ có Ramsey hiểu ông, và Wittgenstein đã từ chối tập Tractatus của ông. Đây là một thông tin không mấy phấn khởi cho những người tự cho là mình hiểu Wittgenstein.

[*Betrand Russlell, My Philosophical Development. London and New York: Routledge, 2023].

Xin trở lại với Tractatus. Wittgenstein viết xong tập này đâu vào năm 1918 lúc ông bị cầm tù. Wittgenstein có đi lính. Ông có hai bản thảo của tập này trong ba lô. Ông kiếm cách gửi được một bản cho Russell và một bản cho Frege. Khi Wittgenstein được thả vào năm 1919, ông trở về Vienna và bất đầu học để làm thầy giáo tiểu học. Ông cho là ông đã giải quyết xong tất cả các vấn đề triết học.Không còn lại gì để làm nữa trong triết học. Đây cũng chính là lý do mà Wittgenstein thường khuyến khích các môn đồ của ông là đừng làm giáo sư triết, thậm chí đừng học triết. Điều này cũng hơi lạ thường. Chưa từng có triết gia nào nói là mình đã giải quyết xong hết các vấn đề triết học. Nhưng mà Wittgenstein có lý do của ông. Sẽ trở lại vấn đề này dưới đây. Bởi vì thể văn mù mờ, cô đọng và khó hiểu của Tractatus, cũng như một số ý kiến được xem là mới lạ của Wittgenstein về luận lý, ông không tìm được nhà xuất bản cho tác phẩm của ông. Russell viết lời giới thiệu để gíup sách được xuất bản, nhưng mà Wittgenstein bất mãn vì ông nghĩ Russell hiểu sai, và Wittgesntein bị tổn thương vì Russell có những phê bình nhẹ nhàng. Như đã đề cập, Wittgenstein có gửi cho Frege một bản thảo, nhưng mà Frege phê bình rất gay gắt và chỉ đọc vài trang rồi dẹp sang một bên.

Cuối cùng sau khi không tìm được nhà xuất bản nào, vào tháng 7, 1920, Wittgenstein viết thư cho Russell nói rằng ông không cố gắng tìm cách để xuất bản Tractatus nữa. Ông giao toàn quyền cho Russell muốn làm gì cũng được, chỉ có điều nếu Russell có sửa chữa gì thì phải ghi vào chú thích. Cuối cùng vào năm 1921 Tractatus được xuất bản bởi một tạp chí ít ai biết đến ở Đức. Sau khi bị từ chối bởi nhà xuất bản Đại Học Cambridge, một bản dịch Anh ngữ Tractaus được xuất bản bởi nxb Kegan Paul với lời giới thiệu của Russell. Sau đó Wittgenstein đi dạy tiểu học, ông thật sự tin rằng không ai còn có thể đóng góp thêm gì nữa cho triết học. Nhưng mà không bao lâu sau ông lại thôi vì ông cũng không thành công lắm với vai trò giáo viên tiểu học.

Năm 1929 Wittgenstein trở lại Cambridge. Russell khuyến khích ông trình tập Tractatus như một luận văn tiến sĩ. Russell và Moore (một triết gia chính yếu nữa của Cambridge) là hai giám khảo. Trong thời gian này vì một số bằng hữu chất vấn Wittgenstein đâm ra hoài nghi tư tưởng của ông. Người đưa ra nhiều câu hỏi hắc búa nhất là kinh tế gia lừng danh người Ý Piero Sraffa, lúc ấy có mặt ở Cambridge. Lúc này Wittgenstein cũng kiệt quệ tài chánh rồi vì ông đã cho hết tiền thừa hưởng của cha ông cho các anh em của ông. Russell giúp ông có được học bổng (fellowship). Sau đó tại Cambridge Wittgenstein gặp gỡ thường xuyên với một nhóm môn đồ thân cận, trong đó có Elizabeth Anscombe, có thể nói là môn đồ thân cận nhất của Wittgenstein. Bà này sau này cũng cải đạo sang Thiên Chúa Giáo La Mã (Catholicism), có lẽ để cho giống với Wittgestein. Các bài giảng và ghi chú của ông được lưu truyên một cách bán chính thức và chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời. Những tư liệu này đánh dấu sự chuyển di của tư tưởng Wittgenstein khỏi Tractatus và logical positivism (luận lý thực chứng luận). Tôi nghĩ chính là do từ thái độ của nhóm môn đồ này đã tạo nên cái truyền thống tôn sùng Wittgenstein. Có một số học giả còn hãnh diện khoe rằng khi họ ghé qua Cambridge đã từng được nghe Wittgenstein giảng. Con người có thói quen thấy người sang bắt quàng thành họ, kể cả những người có học cao. Triết gia Anh A. C. Grayling trong cuốn sách về Wittgenstein có nhận định rằng trong việc nghiên cứu Wittgenstein cũng có một yếu tố “khớp” trong đó.

Trong thế kỷ vừa qua Wittgenstein rất nổi đình nổi đám trong triết học Anh-Mỹ. Đại Học Cornell ở tiểu bang New York có 452 cuốn sách về Wittgenstein trong khi chỉ có 139 cuốn về Russell [Đây là khoảng vào năm 2012]. Nhưng mà nếu ai có sống và đi học bên Mỹ cũng biết rằng các học giả Mỹ học hành tận tụy thật, nhưng mà không ai có hơi sức để đọc nhiều sách như vậy. Đa số trong 452 cuốn sách kia chỉ nằm đóng bụi trên kệ sách thôi. Học giả xuất bản sách vì chính sách của đại học Mỹ “publish or perish” (xuất bản hay là chết), có nghĩa là nếu không có tác phẩm xuất bản thì sẽ không được “tenure” có nghĩa là mất job. Chính vì lý do này mà nước Mỹ xuất bản quá nhiều sách. Ngoài ra, dù là triết gia đi nữa cũng vẫn cần job để sống, Cho nên lúc viết luận văn các giáo sư cố vấn thường khuyên các môn đồ của mình là phải lựa đề tài hay tác giả nào có nhiều ảnh hưởng. Mà thuở đó Wittgenstein là một trong những triết gia được ưa chuộng nhất. Do đó, chúng ta có thể nói đa số các sách học thuật bên Mỹ thường là một tài liệu chính trị hơn là một biểu hiện của tri thức. Tôi không ngụ ý chối bỏ rằng không có học thuật chân thực, nhưng mà trong thế giới khoa bảng của Mỹ, học giả không tiến thân được nếu không có những người đã ở trong nghề lâu rồi, tức là các bigwigs ủng hộ và tiến cử mình.

Wittgenstein chối bỏ triết học. Ông nói chỉ khi nào ngôn ngữ đi nghỉ hè thì triết học mới ngóc đầu lên. Theo ông thì các mệnh đề triết học (philosophical propositions) không phải là sai mà chỉ vô nghĩa lý. Wittgenstein viết trong Tractatus:

4.003 Die mesiten Sätze und Fragen, welche über philosophische Dinge geschrieben worden sind, sind nicht falsh, sondern unsinnig. Wir können daher Fragen dieser Art überhaupt nicht beanworten, sondern nur ihr Unsinnigkeit festhalten. Die meisten Fragen und Sätze der Philosophen beruhen darauf, dass wir unsere Sprachlogik nich verstehen.

(Sie sind von der Art der Frage, ob das Gute mehr oder weniger identisch sei als das Schöne.)

Und es ist nicht wunderlich, dass die tiefsten Probleme eigentlich keine Probleme sind.

4.003 Hầu như tất cả các mệnh đề và câu hỏi từng được viết về triết học không phải là sai lầm, nhưng mà đều vô ý nghĩa. Do đó chúng ta không thể nào trả lời những câu hỏi loại này mà chúng ta chỉ có thể duy trì sự vô nghĩa lý của chúng. Đa số các câu hỏi và mệnh đề của triết học dựa trên sự kiện rằng chúng ta chưa hiểu cái luận lý ngôn ngữ của chúng ta.

(Đó là các câu hỏi thuộc loại, phải chăng cái tốt ít hay nhiều hoàn toàn tương đồng với cái đẹp.)

Wittgestein nhận định thêm:

4.112 Der Zweck der Philosophie ist die logische Klärung der Gedanken.

Die Philosophie ist keine Lehre, sondern eine Tätigkeit.

Ein philosophische Werk besteht wesentlich aus Erläuterungen.

Das Resultat der Philosophie sind nicht “philosophische Sätze“, sondern das Klarwerden von Sätzen.

Die Philosophie soll die Gedanken, die sonst gleichsam trübe und verschwommen sind, klar machen und scharf abgrenzen.

4.112 Mục tiêu của triết học là làm sáng tỏ tư tưởng theo luận lý.

Triết học không phải là giảng dạy mà là một hoạt động.

Một tác phẩm triết học thiết yếu bao gồm các minh giải.

Kết quả của triết học không phải là “các mệnh đề triết học” mà là sự minh giải các mệnh đề.

Triết học phải làm cho sáng tỏ và giới hạn một cách sắc bén các tư tưởng nếu không sẽ rất mờ mịt và rối loạn.

Những nhận định trên hé lộ cho chúng ta phần nào quan điểm của Wittgenstein về triết học. Tôi nghĩ theo ý ông, chúng ta chỉ bắt đầu nói triết học khi nào chúng ta qui định được cái logische Form, tức là cái tương đồng cấu trúc giữa ngôn ngữ và tư tưởng. Chúng ta biết rằng trong thời kỳ Tractatus Wittgenstein là một nhân vật chính yếu trong thời kỳ của khúc quanh ngôn ngữ. Nhưng mà sau đó Wittgenstein đã thay đổi ý kiến và ông chối bỏ tập Tractatus. Russell nhận định rằng Wittgenstein rất thường thay đổi ý kiến (điều này tuyệt nhiên không có gì là xấu). Russell nói rằng có lân ông toan thảo luận một ý kiến của Wittgenstein thì Wittgenstein bực bội nói rằng ông đâu có ý kiến đó bao giờ. Russell nói rằng Wittgenstein đổi ý nhưng mà Wittgenstein quên đi, Russell không biết cho nên mới lãnh búa.

Gần đây tôi ngẫu nhiên có được một cuốn sách rất ngạc nhiên lý thú về Wittgenstein. Đó là cuốn Wittgenstein et les limites du langage (Wittgenstein và các giới hạn của ngôn ngữ) của triết gia Pháp Pierre Hadot. Sở dĩ tôi nói ngạc nhiên là vì Pierre Hadot là một triết gia chuyên về triết học cổ thời, đặc biệt là về triết học của Epicure. Ông không phải là người nghiên cứu về triết học phân tích Anh-Mỹ. Hadot nói ông cũng đặc biệt lưu tâm đến các vấn đề về sự giới hạn của ngôn ngữ trong khi ông nghiên cứu huyên học của Plotin. Chính vì sự ưu tâm này mà ông gặp trong Tractaus của Wittgenstein. Như chúng ta đẵ biết Tractatus là một tác phẩm rất bí hiểm khó hiểu. Và đã có nhiều người nửa đùa nửa thật như Carnarp và Russell nói rằng con người và tư tưởng của Wittgenstein giống như một nhà thần bí (mystic) hay tiên tri hơn là khoa học gia hay triết gia. Cái nhìn của Hadot có thể chứng thực điều này.

Tractatus được giải thích nhiều cách khác nhau. Nhưng mà tôi nghĩ cách giải thích của Hadot tuy mới lạ nhưng rất có lý. Hadot nói ông kinh ngạc bởi những mệnh đề cuối cùng của Tractatus:

5.6 Die Grenzen meiner Sprache bedeuten die Grenzen meiner Welt.

5.6 Các giới hạn của ngôn ngữ của tôi có nghĩa là các giới hạn của thế giới của tôi.

5.632 Das Subjekt gehört nicht zur Welt, sondern es ist eine Grenze der Welt.

5.632 Chủ thể không thuộc về thế giới mà nó là một giới hạn của thế giới.

6.522 Es gibt allerdings Unausprechliches. Dies zeigt sich, es ist das Mystische.

6.522 Hiển nhiên là có một cái gì không thể giải thích được, nó tự thể hiện, đó là cái thần bí.

6.44 Nicht wie die Welt ist, ist das Mystische, sondern dass sie ist.

6.44 Không phải vì thể cách của thế giới mà nó là thần bí, mà rằng nó là.

6.45.Das Gefühl der Welt als begrenztes Ganzes is das Mystische.

6.45 Cảm tính về thế giới như một toàn thể giới hạn là cái cái thần bí.*

[*Pierre Hadot, Wittgenstein et les limites du langage, Paris: Librairie philosophique J. Vrin, 2014. Hadot trích bằng bản dịch Pháp của ông. Ở đây tôi trích lại bằng nguyên ngữ Đức.]

Hadot nói rằng Tractatus không trả lời tất cả các câu hỏi của ông, nhưng mà nó khiến ông phản tỉnh. Ông chỉ quan tâm đến Tratatus chứ không đến bất cứ tác phẩm nào khác của Wittgenstein, vì lý do đơn giản là cái thần bí hay huyền học (mysticisme) bày tỏ trong tác phẩm này mà ông đặc biệt lưu tâm đến biến mất hoặc hoàn toàn biến hóa trong các trước tác sau đó của Wittgenstein. Điều lý thú là trong khi Russell chỉ lưu tâm đến Tractatus vì tính cách luận lý nguyên tử của nó, ông hoàn toàn không hề lưu tâm đến các trước tác khác của Wittgenstein. Hadot thì chỉ lưu tâm đến Tractatus vì ông nhận thấy trong đó một huyền học hay thần bí luận giống như cái ông đang tìm kiếm. Hadot nói thêm rằng lập trường thần bí này hoàn toàn biến mất trong các trước tác sau đó của Wittgenstein.

Nói tóm lại theo Hadot thì khi Wittgenstein mhấn mạnh các giới hạn không thể vượt qua được của ngôn ngữ con người, Wittgenstein đưa chúng ta đến lãnh vực của cái không thể giải thích hay không thể nói lên được (das Unsprechliches), chính là cái thần bí (das Mystische). Ở đây tôi xin được đề cập đến Chris Gudmunsen và tác phẩm Wittgenstein and Buddhism.* Trong đó Gudmunsen nhìn Phật Giáo qua hai truyền thống lớn là Abhidharma/A-tỳ-đàm và Mahāyāna/Đại Thừa. Gudmunsen xếp Russell và Abhidharma về một cánh; Wittgenstein và Đại Thừa về một cánh. Russell và Abhidharma thuộc phái nguyên tử, đại khái là một thứ atomic realisim theo đó thì thực tại (reality) hay thế giới có thể được phân tích thành những tổ phần (constituent elements) tối hậu có nghĩa là không thể được rút gọn nữa (irreducible). Trong khi đó thì theo Nāgārjuna (người được xem là sáng lập phái Trung Quán/Madhyamika của Phật Giáo Đại Thừa) thực tại hay thế giới không thể được biểu hiện hay diễn giải băn khái niệm dựa trên ngôn ngữ.

[*Chris Gudmunsen, Wittgenstein and Buddhism. Palgrave MacMillan, 1977].

Nāgārjuna (Phật Giáo Trung Quốc dịch tên ông sang Trung văn là 龍樹 Long Thụ) từng nhấn mạnh rằng Trung Quán không phải là một quan điểm (dṛṣṭi/view/見/kiến), không phải là một lý thuyết triết học. Lưu ý chữ dṛṣṭi/見/kiến trong lịch sử Phật Giáo mang một ý nghĩa phức tạp hơn chữ view rất nhiều. Một cách tóm lược Nāgārjuna nhấn mạnh (theo tôi rất chính xác) rằng yếu tính của giáo lý của Phật là duyên khởi (pratītyasamputpada/緣起) có thể dịch sang Anh ngữ là conditionality. Tất cả mọi hiện tượng (法/pháp/dharma) trong vũ trụ đều hiện hữu như một duyên khởi pháp, cho nên chúng không phải là tự hữu, do đó không có tự tính cũng được gọi là không (śūnytā, 空/không). Không ở đây có nghĩa là không có tự tính (self nature). Nāgārjuna nói Phật phát biểu tính không như là một bác bỏ tất cả cac quan điểm (dṛṣṭi/見). Xem tính không như một quan điểm là một sai lầm nguy hiểm nhất. Nói tóm, đặc tính của Trung Quán là không đưa ra một quan điểm của riêng mình mà chỉ chứng minh rằng tất cả các quan điểm hay lý thuyết triết học (dṛṣṭi/view/見/kiến) cuối cùng đều tự mâu thuẫn. Theo Wittgenstein thì triết học “để mặc tất cả mọi sự vật” (Sie [Philsophie] läßt alles wie es ist” và “Die Philosophie stellt eben alles bloß hin, und erklärt und folgert nichts.- Da alles offen daliegt, ist auch nichts zu erlären. Triết học chỉ đặt tất cả trước mặt chúng ta, và không giải thích hay kết luận gì cả.- Bởi vì tất cả hiển lộ ra đó, không có gì để giải thích cả.” (Philosophische Untersuchungen?Philosophical Investigations 126). Nếu ai thấy Gudmunsen có vẻ có lý, tôi sẽ nói “not so fast”. Lý do: tất cả mọi lý thuyết triết học, Tây phương cũng như Ấn Độ, duy vật hay duy tâm luận, cuối cùng đều là một thứ duy thực luận (realism). Phật Giáo là duyên khởi luận, là một phê bình triệt để tất cả mọi hình thức của duy thực luận. Bất cứ cái gì là duy thực (realist) cái đó không phải là Phật Giáo.

Xin trở lại với Pierre Hadot. Hadot đưa ra nhận xét rằng vào đoạn cuối của Tractatus, Wittgenstein tiến dần vào lãnh vực đích thực của cái thần bí (Mystische) theo sự diễn đạt của ông và một loại trực giác không thể giải thích. Hadot nói “đó không phải là một ý niệm trừu tượng, đó là một cảm thức về các giới hạn của ngôn ngữ:” Chúng ta hãy đọc những đoạn cuối của Tractatus:

6.431 Wie auch beim Tod die Welt sich nicht ändert, sondern aufhört.

Như khi sự chết xảy ra thế giới không thay đổi mà ngưng lại.

6.4311 Der Tod is kein Ereignis des Leben. Den Tod erlebt man nicht.

Wenn man unter Ewigkeit nicht unendliche Zeitdauer, sondern Unzeitlichkeit versteht, dann lebt der ewig, der in der Gegenwart lebt.

Unser Leben ist ebenso endlos, wie unser Gesichtsfeld grenzenlos ist.

Sự chết không phải là một biến cố của đời sống. Người ta không thể nghiệm sự chết.*

Khi người ta hiểu vĩnh cửu không như là một khoảng thời gian bất tận mà như là phi thời gian, thì người sống vĩnh cửu là người sống trong hiện tại.

Đời sống của chúng ta cũng vô tận như thể tầm nhìn của chúng ta vô giới hạn.

6.44 Nicht wie die Welt ist, ist das Mystische, sondern dass sie ist.

Không phải vì thế giới như thế nào mà cái thần bí hiện hữu, mà rằng nó hiện hữu.

6.45 Die Anschauung der Welt sub specie aeterni ist ihre Anschauung als – begrenztes – Ganzes.

Cái nhìn về thế giới dưới từ quan điểm vĩnh cửu là cái nhìn về nó như thể sự giới hạn toàn thể.

Das Gefūhl der Welt als begrenztes Ganzes is das Mystische.

6.522 Es gibt allerdings Unaussprechliches. Die zeigt sich, es ist das Mystische.

6.54 Meine Sätze erläutern dadurch, dass sie der, wlecher mich versteht, am Ende als unsinnig erkennt, wenn er durch sie -auf ihnen – über sie hinausgestiegen ist. (Er muss sozusagen die Leiter wegwerfen, nachdem er auf ihr hinaufgestiegen ist.)

Er muss die Sätze überwinden, dann sieht er die Welt richtig.

Wovon man nicht sprechen kann, darüber muss man schweigen.

Các mệnh đề của tôi minh giải rằng người nào hiểu tôi sẽ nhận thức được rằng chúng vô nghĩa lý, khi nào người ấy nhảy xuyên qua, lên trên chúng được. (Nói thế có nghĩa là người ấy phải vất cái thang đi sau đã leo lên nó).**

Người ấy phải vượt qua những mệnh đề này lúc đó người ấy mới nhìn thế giới một cách đúng đắn.

Về cái gì người ta không thể nói được thì người ta phải im lặng.

[*Phát biểu này tương tự với phát biều của Epicurus (341BC – 270 BC), triết gia cổ Hi Lạp: “Sự chết không là gì đối với chúng ta cả. Khi chúng ta hiện hữu, sự chết không hiện hữu; và khi sự chết hiện hữu, chúng ta không hiện hữu”. **Phát biểu này tương tự như một phát biểu trong Kinh Kim Cương của Phật Giáo Đại Thừa, “Bè dùng để qua sông, khi đã đến bờ bên kia rồi thì phài bỏ bè đi”].

Ở đây một điều hiển nhiên. Wittgenstein hiểu cái thần bí là cái cảm thức mà chúng ta có được bởi vì chúng ta trực tiếp đụng phải các giới hạn của ngôn ngữ. Theo Hadot thì dù gì đi nữa, Tractatus kết thúc trong cái thần bí. Theo ông thì cái thần bí này gồm thành tố: cảm thức về hiện hữu, cảm thức về sự giới hạn toàn diện, và cảm thức về cái không thể biểu đạt được, có nghĩa là một cái gì bên trên ngôn ngữ. Wittgenstein cho rằng cái thần bí khởi sự ngay giây phút mà cách sử dụng chỉ thị của ngôn ngữ gợi lên trong chúng ta một cảm thức giới hạn toàn thể. Cái Unaussprechliches của Wittgenstein cũng không khác gì cái ineffable (không thể diễn tả được) hay sự im lặng của các huyền giả (mystics) trong truyền thống tôn giáo Tây phương. Khẩu khí của Wittgenstein trong những phát biểu kết thúc của Tractatus khiến chúng ta có xem ông là một mystic trong truyền thống huyền học (mysticism) Tây phương giống như Meister Eckhart, Henry Suso, vân vân. Đúng hơn, chúng ta có thể nói giống các huyền học gia Đông phương nhiều hơn vì thần bí của Wittgesntein không có liên hệ gì nhiều đến sự kết hợp với God, mà chỉ là sự nhận thức được các giới hạn của ngôn ngữ tựa như các Thiền sư của Phật Giáo Đông Á.

Tóm lại chúng ta không cảm thấy có một cái gì rất khác thường về trường hợp Wittgenstein. Trong giới triết học Anh-Mỹ ông thường được xem là một trong các triết gia hàng đầu. Nhiều người thậm chí còn gọi ông là triết gia lớn nhất của thế kỷ 20. Đương nhiên có nhiều người không đồng ý. Riêng tôi cũng không ấn tượng lắm. Tôi có thể kể ra 20 triết gia uyên bác và thâm sâu hơn Wittgenstein. Lý do chính là Wittgesnstein không mạo hiểm vào thế giới triết học. Khi ông mới tới Cambridge gặp Russell ông chỉ là một kỹ sư. Suốt thời gian sau đó ông chỉ viết được tập Tractatus tương đối có câu cú tuy rằng bí hiểm. Sau đó ông lại cực lực chối bỏ tác phẩm này. Ông chỉ sử dụng một vài khái niệm về ngôn ngữ để phán đoán rằng những mệnh đề triết học đều vô nghĩa lý. Nhưng mà ngôn ngữ cũng có nhiều tầng lớp. Ngôn ngữ trong các ngành chuyên môn như triết học chẳng hạn, được sử dụng như một công cụ mà các chuyên viên phải được đào tạo mới biết sử dụng. Trong bối cảnh đó ngôn ngữ có đời sông đặc thù của nó. Không phải bất cứ một người Mỹ nào, kể cả những người có học cao, mở một cuốn sách triết ra đọc cũng có được ý niệm rằng những chữ trong sách đó muốn nói lên cái gì.

Những nhận xét trong các trang ở trên của tôi không hề có mục đích đưa ra một đại cương về triết học của Wittgenstein trong Tractaus. Tôi không nhắm làm điều đó vì tôi không phải là chuyên viên về Wittgenstein và cũng chưa từng bao giờ ái mộ ông. Những nhận xét của tôi chỉ nhắm trình bày một số bối cảnh (background) lịch sử về Wittgenstein và tập Tractatus của ông. Một điều chúng ta nhận thấy là có rất nhiều cách giải thích vè tập Tractatus. Heidegger (ông lục địa) và Wittgenstein (ông phân tích) là hai nhân vật hóc búa nhất để chúng ta dựa vào làm nền tảng học triết Tây. Hơn nữa, triết học và lịch sử triết học là vấn đề hết sức phức tạp. Chúng ta không thể nào nghiên cứu một triết gia Tây phương tách biệt khỏi khung cảnh lịch sử, ngôn ngữa và văn hóa.

Một vài ý nghĩ cuối cùng: tôi không biết ở Việt Nam hiện giờ ai là người học triết học. Các đại học ở Việt Nam dạy triết như thế nào? Ai là người dạy triết? Giới trẻ có lưu tâm đến triết hay không? Ở Mỹ bởi vì có gần đến 4000 đại học (kể cả các đại học hai năm) . Đa số đại học nào cũng có ban triết (philosophy department). Các học sinh dù không chọn triết là ngành chính cũng bị đòi hỏi phải lấy một hai lớp triết nào đó. Người có bằng PhD về triết nhiều vô số kể, đa số thất nghiệp. Một vấn đề tôi rất lưu tâm là ngôn ngữ. Sự suy tư phức tạp về triết học kéo theo một ngôn ngữ hết sức phức tạp. Việt ngữ không đủ năng lực để chuyên chở triết học Tây phương, cùng lắm nó chỉ có đóng vai trò thông báo tường thuật sơ qua về triết Tây kiểu như ông Trần Thái Đỉnh làm thời 1960. Ngoài ra, tiếng Việt quá khác với tiếng Anh tiếng Pháp (còn nhớ nhận xét của Bruno Snell). Việt ngữ không có “declension” như Anh và Pháp ngữ. Mỗi chữ trong Việt ngữ kể như chết cứng. Triết gia Pháp Jacques Derrida, chẳng hạn, chế ra chữ différance từ chữ différence để giải thích ý nghĩa của ngôn ngữ. Heidegger lại là vua chế chữ.

Theo chỗ tôi biết thì giới trẻ ở Việt Nam hiện giờ rất là giỏi ngoại ngữ, nhất là Anh ngữ. Tôi cũng được biết rằng một số đại học ở Việt Nam được giảng dạy bằng Anh ngữ. Đây là một điều rất phấn khởi. Hi vọng trong một tương lai gần Anh ngữ sẽ trở thành ngôn ngữ trí thức trong tất cả các đại học ở Việt Nam. Đây có thể là bước đầu tiên phải đi nếu Việt Nam muốn “anh dũng oai hùng chen chân thế giới” theo ước nguyện của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông nhiều năm trước đây. Hơn nữa sử dụng Anh ngữ giúp công việc học hành giản dị và hiệu quả hơn. Học sinh đọc thẳng tư liệu bằng Anh ngữ không cần phải dựa vào bản dịch. Dịch không phải là phản như người Pháp nói. Theo tôi dịch là một hình thức phóng tác. Ví dụ có người dịch Romeo and Juliet sang Việt ngữ thành Lan và Điệp. Độc giả Việt Nam đọc cũng có thể say mê như độc giả Anh đọc Romeo and Juliet. Nhưng mà Lan và Điệp vẫn là Lan và Điệp, không bao giờ là Romeo và Juliet.

Be First to Comment

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *