Press "Enter" to skip to content

Freud và Huyền Thoại Vô Thức

từ góc độ triết học

Freud và Huyền Thoại Vô Thức:

Một ngữ nghiệp về tham chiếu và biểu đạt

Nguyễn Hữu Liêm

Tháng 10 này đánh dấu 94 năm (2024-1930) ngày cuốn sách Das Unbehagen in der Kultur (Civilization and Its Discontents) của Sigmund Freud, tâm lý gia gốc Áo (1856-1939), nhà sáng lập ngành phân tâm học(psychoanalysis). Tác phẩm này được đánh giá là một trong những cuốn sách quan trọng nhất nhì của Âu châu về tâm lý học. Ở đây, tiến sỹ triết học Nguyễn Hữu Liêm thử đánh giá lại cơ đồ của Freud và hỏi rằng, có phải phân tâm học Freud là một khoa học?

BÓNG MỜ GIA SẢN

Nếu Friedrich Nietzsche (1844-1900), triết gia Đức, là cha đẻ của “giải cấu luận” (deconstructionism) vốn đã mở màn một phương cách suy tưởng mới cho giai đoạn hậu hiện đại (post-modernity) ở cuối Thế kỷ 19, thì Sigmund Freud, cùng với Karl Marx và Darwin, đã mở ra một cánh cửa ý thức mới về con người, đánh đổ truyền thống giả định về giá trị nhân bản vốn là nền tảng của thời đại Khai Sáng của Âu châu.

Gia sản trí thức lớn của Freud là cống hiến một phạm trù tư tưởng, một tiền đề lý thuyết, một hệ thống phương pháp luận mới nhằm giúp con người Tây phương tái định nghĩa và định vị lại chính mình vốn vẫn dựa trên căn bản ý thức. Cũng như Marx trên tiền đề Kinh tế và Giai cấp, Freud, với tiền đề Vô thức (the Unconscious), muốn đem ra ánh sáng cơ sở năng lực nội tại con người – và từ đó, năng tố quyết định cho lịch sử, văn minh – vốn còn nằm trong bóng tối mà tư tưởng Tây phương mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 19 vẫn còn chưa công nhận.

Nếu Marx đã thay đổi được lịch sử nhân loại trong suốt thế kỷ qua; thì cũng trong thời gian này, Freud đã thay đổi được con người Tây phương trên chiều hướng tự biết về chính mình(1).

Freud muốn đánh đổ huyền thoại bản thể luận về con người vốn mang đầy mầu sắc thánh linh của Âu châu bằng một huyền thoại mới. Ðó là Huyền thoại Vô Thức – the Myth of the Unconscious. Trên cơ sở mới của biện minh khoa học thực nghiệm, huyền thoại vô thức sử dụng toàn bộ hệ thống khái niệm và phương pháp luận của khoa học thực nghiệm để mang cho nó một chính thống tính cho thời đại.

Từ đó, Freud khai sinh ra một “khoa học” mới: phân tâm học (psychoanalysis).

Phân tâm học và phân tâm học trị liệu (psychotherapy) là một nỗ lực đem ánh sáng ý thức vào góc tối ẩn ức vô thức nhằm khai thông những nguồn mạch ý chí và động cơ, nhằm điều chỉnh và giải hóa những hiện tượng tâm thần tiêu cực cho con người.

Ðây không phải là lần đầu. Phật giáo là một hệ thống phân tâm học đồ sộ với một nền tảng bản thể luận và siêu hình học khác(2). Nhưng đối với Tây phương, vốn xa lạ với Phật học, thì Freud là một giáo hoàng mới mang chiếc áo khoa học lộng lẫy và cũng là một cô dâu tươi trẻ với ngôn ngữ xác thịt đầy quyến rũ làm say mê biết bao nhiêu thế hệ trí thức Âu Mỹ muốn giải phóng năng ý tính dục của họ.

DỤC TÍNH LÀ TẤT CẢ

Từ góc độ triết học thì Freud và Huyền thoại Vô thức cũng đã cống hiến một tri thức luận mới – a new epistemology. Thay vì ý thức quyết định sự hữu (being) con người với công thức của Descartes, cogito ergo sum, thì đối với Freud, vô thức là nền tảng cho ý thức và sự hữu cá nhân.

Theo Freud thì tri thức (the mind) không là thống nhất và toàn bộ như Descartes đã đưa ra. Với vô thức, tri thức là một căn nhà bị chia hai: tầng trên với ánh sáng ý thức và tầng dưới đất (basement) thì vẫn còn đang nằm trong bóng tối. Ðời sống ý thức chỉ là một tảng băng nổi trên mặt biển – mà vô thức là phần dưới nước không thấy được thì to lớn gấp muôn lần vốn quyết định tất cả những sinh hoạt và nội dung ý thức.

Góc tối vô thức chứa đầy những năng lực kiểm soát hành vi – mà năng lực lớn nhất là libido: năng lực tính dục ẩn ức chỉ muốn thoả mãn bằng mọi phương diện và mọi giá. Từ đó, nhị thể luận Descartes giữa thân (body) đối với thức (mind) được Freud chuyển qua libido (dục) đối với ego (ngã), eros (tình) đối với thanatos (tử).

Với tiền đề vô thức qua động cơ tính dục, Freud giải thích tất cả hiện tượng ý chí, suy tưởng, tâm lý, và các biến dạng tiêu cực của chúng bằng libidoeros. Từ mặc cảm Oediphus mang năng thức dục tính đối với cha mẹ, đến hội chứng penis envy (ganh tỵ dương vật) quyết định tính chất cảm thụ nghệ thuật, giữa trai và gái, hành vi nút nắm tay của trẻ con sơ sinh, tất cả đều được Freud cống hiến cho con người Tây phương một quần chúng tư duy mới, mà trong đó, tất cả những gì mà con người ham muốn và nuôi ý chí hành động đều có thể được giải thích (explained away) bằng ngôn ngữ tính dục.

Ngay cả giấc mơ cũng mang một nội dung vô thức khác: Năng ý thỏa mãn ước muốn ngấm ngầm được biểu lộ hóa qua màn ảnh ý thức trong lúc đang ngủ say.

Từ đó, văn minh và lịch sử con người chỉ là màn bi kịch lớn diễn lộ và khai mở những nỗi uẩn ức dục tính – chứ không là của năng ý Tinh thần, Thượng đế hay là của đấu tranh giai cấp, như Thiên Chúa giáo, Hegel, hay Marx đã giải thích.

Những thượng tầng kiến trúc tư duy như văn chương, nghệ thuật, đạo đức hay tôn giáo đều được phát xuất từ năng lực dồn nén và nội tại hóa tính dục. Khi sự dồn nén này không còn khoảng trống, nó trở nên ý chí tự phủ định: lòng hiếu chiến đối với thế giới khách quan chỉ là sự ngoại thân hoá cái bản năng muốn chết (death instinct).

Con người và lịch sử, do vậy, là một trường chiến cuộc liên miên giữa ý thức và vô thức, giữa lý tính và vô lý tính, giữa bản năng và phản bản năng.

MỘT LOẠI KHOA HỌC TIẾM DANH?

Có phải Freud và đứa con phân tâm học của ông chỉ là một thứ khoa học tiếm danh (pseudo-science)?

Hãy thử phân tích: Phân tâm học sụp đỗ trên bàn cân phạm trù nhân-quả (categorical causality): chiếc cầu tương tác giữa vô thức và ý thức chỉ là những giả định về khái niệm tuỳ thuộc vào vận hành lý luận (logical operation) – hơn là được kiểm chứng và minh xác bởi phương pháp và chứng cớ thực nghiệm (dù Freud đã cố biện minh lý thuyết bằng những bằng chức lâm sàn).

Freud đã hiểu lầm và trộn lẫn giữa hai phạm trù bằng chứng: giữa minh chứng lý tính (rational proofs) đối với chứng cớ thực nghiệm (empirical evidence). Minh chứng lý tính chỉ biện minh được tính hợp lý từ góc độ logic (logical validity), chứ không phải là cơ sở biện minh cho liên hệ nhân-quả giữa hai định thể tách biệt.

Chúng ta nhớ rằng, nhị thể luận (ontological dualism) Descartes bị sụp đổ vì liên hệ nhân-quả giữa mind (thức) và body (thân) đã không được giải thích(3). Freud lập lại tính nan giải này với tiền đề “vô thức” versus “ý thức.” Nhưng tất cả chỉ là những giả định thuần lý thuyết, mang bản chất văn chương hoang tưởng, hơn là có cơ sở khoa học có giá trị thực nghiệm.

Ðây chính là điều mà Sebastiano Timpanaro, dựa theo Karl Popper, có nói, “Cái thực chất phản khoa học của một lý thuyết nằm ở chổ nó có khả năng trốn tránh – bằng nguỵ biện – tất cả mọi khả năng chứng minh sai lầm”(4).

Phân tâm học Freud có thể phán giảng về một thể loại ẩn ức nhằm giải thích cho nội dung giấc mơ bằng nhiều loại dồn nén vô thức khác nhau – mà cái nào cũng có lý như tất cả mọi cái khác – trong khi không thể trưng dẫn chứng cớ trị liệu (clinical evidence) cho tính liên hệ nhân quả từ ẩn ức vô thức đến nội dung giấc mơ.

Ðây là điều mà nguyên lý tiêu chuẩn khoa học từ Aristotle đến Bacon đã cảnh giác: Khi đưa ra lý thuyết trước rồi tìm bằng chứng biện minh sau thì tất cả bằng chứng đều được giải thích từ lý thuyết đã có sẵn với những chứng cớ thực nghiệm không vững chắc.

MỘT TRẬN ĐỒ NGÔN NGỮ

Nói theo Ludwig Wittgenstein, triết gia gốc Áo (1889-1951), thì cơ đồ lý thuyết và phân tâm học của Freud là một trận đồ ngôn ngữ mà trong đó quy pháp diễn đạt đã được quy hoạch cố định trước và từ đó tất cả mọi giải thích trên cơ sở bằng chứng đều không thoát khỏi khung cửa hẹp của quy tắc diễn đạt vốn đã bị bắt buộc(5).

Wittgenstein so sánh thuyết vô thức Freud với triết học logic của chính ông, “Cái ác ôn của Russell’s logic (Bertrand Russell, 1872-1970, triết gia Anh) và của tôi trong Tractatus (Logico-Philosophicus) là ở chổ khi một mệnh đề được củng cố bằng một vài trường hợp điển hình thì (chúng tôi) đã vội cho rằng nó đã được thấu hiểu (và biện minh) hoàn toàn trên bình diện phổ quát”(6).

Wittgenstein đã nói đến chứng bịnh say máu trong ngôn từ và khái niệm của giới trí thức ưa lý thuyết hóa mọi sự để rồi tưởng tượng trong mê hoặc rằng lý thuyết của mình đã được lên ngôi vua chúa chân lý cho một vương quốc khoa học thực nghiệm khách quan.

Từ đó, tiền đề vô thức với gia sản phân tâm học của Freud – nhất là trên lý thuyết về giấc mơ và phương pháp luận diễn giải về nó – phần lớn chỉ là một loại khoa học tiếm danh, a pseudo-science, đầy lừa dối và thiếu lương thiện trí thức(7).

Thế nhưng, thế giới triết học và tâm lý học Tây phương sau Freud bị choáng ngợp bởi màu sắc dục tính, một cơ đồ lộng lẫy đầy bóng tối, đầy bệnh hoạn, đã hồ hỡi chụp lấy trò chơi ngôn ngữ, với lối quy pháp diễn tả, nhảy lên chuyến tàu khái niệm mới của Freud để vừa giải trí cho đầu óc, vừa đánh lận con đen lường gạt và làm tiền đám quần chúng thành thị ngây thơ và trưởng giả Tây Âu, trong một thời đại nơi những xã hội đầy nhàm chán và bực bội.

Khi bệnh lý vô thức được thay thế cho ý chí tội lỗi của truyền tống Thiên Chúa giáo thì chính là lúc mà Freud tìm ra được chiếc ghế nằm (couch) để cho bệnh nhân tâm thần được kể lể tâm sự với bác sĩ phân tâm học (với một giá tiền thời gian đắt như vàng) nhằm thay thế cho phép quỳ gối xưng tội với các giáo sĩ trong thánh đường.

***

MỘT SAI LẦM VĨ ĐẠI

Sai lầm của Freud là sai lầm lớn ở một trí thức lớn. Nhưng đó là một thứ sai lầm, nói theo Wittgenstein, của khôn ngoan (cleveness) chứ không phải là của trí tuệ (wisdom)(8) – một thứ sai lầm từ một ý chí ưa diễn đạt và một loại bệnh lý đi tìm khoái lạc qua ngôn ngữ và khái niệm.

Khi đám tang của Freud đang tiến hành (tháng 9 năm1939), thì thi sĩ W. H. Auden của Anh quốc, viết,

If often he was wrong and, at times, absurd

to us he is no more a person

now but a whole climate of opinion

under whom we conduct our diffrent lives.

(“Nếu ông ta đã từng sai, nhiều khi đến độ nực cười

với chúng ta, con người đó nay không còn nữa

nhưng giờ đây, dưới cả một bầu trời quan điểm

chúng ta nay hành hoạt với những cuộc đời đã khác xưa.”)(9)

Những đứa con hoang trí thức Âu châu mà Freud đã đẻ ra là những Marcuse, Lacan, Foucault, Deleuze với những cơn say lý thuyết triền miên của giới trí thức Âu Châu, nhất là Pháp(10). Ngày nay, những cơn say này đã đi qua. Cái còn lại của Freud và Vô thức luận chỉ là một thể loại tự kiểm thảo (self-critique) – một phương pháp luận mang bản chất giả thuyết và suy lý (theoretical speculation) nhằm nhắc nhở con người thuần lý của thời đại ngày nay rằng, lý tính không phải là cơ sở duy nhất cho cơ sự làm người.

Và cuối cùng xin nhắc nhở trí thức thế giới ngoài Âu Mỹ – nhất là ở Việt Nam hiện nay – cũng phải ý thức đến điều này: Freud, cũng như Marx, chỉ là những hiện tượng lý thuyết phát xuất từ ý chí tự kiểm thảo, tự điều chỉnh trong truyền thống trí thức Tây phương – vốn chỉ có giá trị nội tại trong luồng văn minh đó mà thôi(11).

Vì thế, hãy đừng bắt chước và lập lại ngôn từ, khái niệm của Freud – hay Marx – như là những chân lý khoa học – mà thực chất chỉ là thứ khoa học phù thuỷ, những trò dễu cợt sâu sắc và quyến rủ – vốn đã dãy chết từ lâu trên quê hương của chúng(12).


Chú Thích


  1. Cho một phân tích rộng lớn hơn về một lịch sử tư tưởng Tây phương trên cơ sở logic và tinh thần triết học, xin đọc Nguyễn Hữu Liêm, “Phác thảo một triết học cho lịch sử thế giới.” NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2020.

  2. Ðây là một nhận định quá tổng quan mà khuôn khổ bài viết nầy – vốn chỉ là một triết luận, chứ không phải là một nghiên cứu – không cho phép đi vào chi tiết. Xin đọc Manly Hall, “Buddhism and Psychotherapy,” Los Angeles, 1979.

  3. Vấn đề căn bản của nhị thể luận (dualism) giữa “thức” (mind) và “thân” (body) nằm ở trên phương diện tương tác nhân quả (casual relationship): Nếu thức và thân là hai cơ sở khác biệt và tách rời (distinct and seperate) thì tại sao ý thức có thể cử động chân tay?

  4. Nguyên văn: “The actual non-scientificity of the theory resides precisely in its capacity to elude – by way of sophistry – every possibility of falsification.” Sebastiano Timpanara, “The Freudian Slip.” Bản dịch tiếng Anh của Kate Soper, New Jersey, 1976. (Trích từ Bouveresse, “Wittgenstein Reads Freud. Xem (4).”

  5. Jacques Bouveresse, “”Wittgenstein Reads Freud: The Myth of The Unconscious.” Bản dịch Anh Ngữ của Carol Cosman. Princeton, 1995. Ðể thông hiểu hơn những vấn đề ở đây, xin đọc Ludwig Wittgenstein’s “Philosophical Investigations.”

  6. Sđd, tr. 50. Nguyên văn: “The basic evil of Russell’s logic, as also of mine in the Tractatus, is that what a proposition is is illustrated by a few common place examples, and then presupposed as understood in full generality“). Xin đọc Wittgenstein’s “Tractatus Logico-Philosophicus.”

  7. Về những xảo thuật và gian lận về bằng chứng cho lý thuyết của Freud, xin đọc, J. M. Masson, “Freud: The Assault on Truth – Freud’s Suppression of the Seduction Theory.” New York, 1984.

  8. Jacques Bouveresse, sđd, tr. 14.

  9. W. H. Auden, “In Memory of Sigmund Freud, 1939.”

  10. Jacques Lacan có thể là trường hợp chính xác hơn cho những phê bình về phân tâm học trên cơ sở triết ngữ. Tôi xin mượn lời T. K. Seung của Ðại Học Texas để gọi những lý thuyết của triết học Âu Châu từ Cấu trúc luận, Giải cấu luận, Thông diễn luận (Hermeneutics)… là “the karma of reference and representation.” (“một thứ ngữ nghiệp về tham chiếu và biếu đạt.” (Seung, “Structuralism and Hermeneutics.” Columbia, 1982). Vấn đề còn đi xa hơn: Ðó là vấn đề của “cám dỗ khái niệm và ngôn từ” mà trí thức văn bản thường bị rơi vào mê hồn trận. Hình như rằng sau cơn say triết học Hegel, hầu hết triết học của Pháp đã biến thành văn chương.

  11. Cho một phân tích về tiền đề này, xin đọc, Ashis Nandy, “The Savage Freud and other Essays on Possible and Retrievable Selves.” Princeton, 1995 và Harvie Ferguson, “The Lure of Dreams: Sigmund Freud and the Construction of Modernity.” London, 1996.

  12. Khi đang trên giường bệnh và sắp lìa đời vào năm 1951, Wittgenstein có nói với người bạn thân, “Tất cả những triết học của tôi đều là những mẫu chuyện hài ước. Tiếc rằng tôi viết hài ước hơi bị dở.” (Xem phim “Wittgenstein, A Life”). Ở đoạn áp chót của “Tractatus” (6.54), Wittgenstein viết, “Ai hiểu được tôi thì cuối cùng đều nhận ra rằng những gì tôi nói ra đều chỉ là vô nghĩa (senseless).” Tinh thần này cũng phải nên áp dụng cho trường hợp của Freud.