Press "Enter" to skip to content

Mẫu Tính trong Văn Hóa Việt

Mẫu Tính trong Văn Hóa Việt

Maternity as the Metaphysical Foundation of Viet-Culture

Reviewed for the International Conference on Gender Issues, University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University, Hanoi 28, October 2024

Trần Văn Ðoàn
Academia Catholica, Fujen Catholic University &
The Catholic College of Vietnam

Abstract

This paper is conjecturing maternity as the principle of the Viet-life and the hidden logic of the Viet-thinking. Maternity is conceived of in according with the onto-genetical order of life-giving, life-raising, life-protecting, life-developing and the philo-genetical order of life-sustaining and life-transcending (life-enjoying, life-hoping).

This work consists of three parts: The first part critically reviews the still controversial issue of whether Vietnamese culture is founded on matriarchy, an agricultural way of life or on maternity, a certain principle of life-giving, life-sustaining, life-developing and life-enjoying. To argue for maternity, the second part is an investigation into diverse ways of thinking about gender, feminility, and motherhood hidden in popular literature as well as in the works of female writers. As result of above investigation is our tentative conjecture of maternity as the metaphysical principle of Viet-culture in the final part.

Key-words: maternity, Viet-women, life-principles, femininity, the Viet-way of thinking

Tóm Lược

Luận văn sau đây thử đưa ra một luận đề về lối suy tư Việt dựa trên nguyên lý mẫu tính của người Việt. Lối suy tư mẫu tính tư duy theo một quy luật quyết định cuộc sống như các yếu tố sinh, dưỡng, dục và lạc. Bài này gồm ba phần: Phần thứ nhất phản hồi lối nhìn văn hóa Việt là một nền văn hóa mẫu hệ, nông nghiệp, mang âm tính, và đề ra luận đề (conjecture) chứng minh đó là nền văn hóa mẫu tính, lối tư duy đặc thù về sự sống dựa trên những nguyên tố tạo lên sự sống (tạo sinh), nuôi dưỡng cuộc sống (dưỡng sinh), bảo tồn sự sống (bảo sinh), và thăng hoa cuộc sống (dục sinh, lạc sinh). Phần thứ hai phân tích các văn bản, dữ kiện hay hiện tượng liên quan tới lối suy tư chung của người Việt về phụ nữ, và về lối suy tư của phụ nữ Việt. Phần thứ ba dựa vào kết quả những phân tích trên đề ra một nguyên lý căn bản, thông suốt, và phổ quát trong lối suy tư Việt, đó là nguyên lý mẫu tính.

Từ khóa: Mẫu tính, phụ nữ Việt, nguyên lý sống, âm tính, lối tư duy Việt

Tiểu luận sau phát triển thêm từ bài “Mẫu tính trong Văn hóa Việt” từng phát biểu tại Hội thảo của Viện Triết Đạo (The Catholic University of America, Mỹ, 8.2002), và tại Khoa South Asian Studies (Đh Leiden, Hà Lan. 11.2002), cũng như công bố trên Tập san Triết Đạo - Journal of Vietnamese Philosophy and Religion, Số 4 (2003), 7-36. Sau hơn 20 năm, khi đọc lại để sắp xếp thành một chương của Việt Triết Luận Tập (Tập 3), tôi thấy cần phải sửa và bổ túc nhiều nơi. Ý tưởng chính về mẫu tính không thay đổi.
Dâng về Hiền Mẫu!
Dulcis mater mea!

    1-Mẫu tính, Âm tính, Nữ tính

    Thoạt tiên, để làm sáng tỏ về một số từ ngữ thông dụng thường bị hiểu một cách phiến diện, tôi xin được nói thêm về vài từ ngữ liên quan đến bài viết như sau:

    Phụ nữ (婦女) nói chung chỉ nữ giới, hay đàn bà con gái (theo ngôn ngữ bình dân Việt). Phụ (đàn bà/婦) là người đã có chồng, trong khi Nữ (con gái/女) để gọi chung cho tất cả giới nữ, khác với nam giới, độc thân hay có gia đình. Đi kèm với chồng gọi là phụ (phu phụ/夫婦); trong gia đình gọi là thê (với chồng như phu thê/夫妻, với con cái như “bầu đàn thê tử”/妻子); với người ngoài như phu nhân (夫人). Phụ, thê luôn mang tính phụ thuộc gắn liền với chồng (phu), với con (trai) trong cái đạo “tam tòng” Nho giáo. Trong bài này, phụ nữ nói chung được hiểu như giới nữ tùy theo công việc, địa vị xã hội, vai vế trong gia đình…

    – Trong trường hợp về mẫu/mẹ (母), được hiểu rộng hơn. Mẫu/mẹ không hoàn toàn bị lệ thuộc vào phụ/cha (父), như thấy trong lối nhìn/xưng hô quen thuộc cha mẹ/phụ mẫu (父母) (mà thuyết cấu trúc luận theo Lévi-Strauss giải thích). Mẫu/mẹ có phần quan trọng, tương đối độc lập hơn, được coi là “cái chính”, cái “sinh ra” những cái khác, “cái quan trọng”, lớn lao. Thí dụ, trong lối nhìn bình dân về sông núi, đường đi, nhà ở, chúng ta thấy có sông cái, đường cái, nhà cái (nhà mẹ)… Sông cái có nghĩa là “sông mẹ”, sông chính, sông lớn. Vì là mẹ, là chính… nên có “sông con”, “sông bé”, “sông phụ”. Không thấy có “sông bố”, “sông đực”. Trong lối suy nghĩ triết lý, mẫu/mẹ được hiểu theo nghĩa cội nguồn, nền tảng. Lối xưng hô mẹ-cha (mẹ trước cha sau, mẫu đặt trước phụ) vốn theo triết lý cội nguồn âm-dương (âm trước dương sau) của nguyên Nho và Đạo gia. Mẫu được coi là đạo, và ngược lại, đạo là “vạn vật chi mẫu” (Đạo Đức Kinh), là nguyên lý của sinh sản (Kinh Dịch Đạo Đức Kinh). Ngoài bản năng sinh đẻ, mẫu còn gắn chặt với nuôi dưỡng, giáo dục, đùm bọc, thương yêu, bảo vệ sự sống (bảo sinh), được nhìn nhận là giá trị nền tảng nhân văn. Đạo Mẫu (đạo mẹ) rất thịnh hành trong văn hóa Đông Á. Thánh mẫu được gán cho những phụ nữ có những công năng sinh ra (nhân tài), bảo vệ, nuôi dưỡng, phù trợ dòng tộc (dân lành). Không thấy (hay ít thấy) có thánh phụ trong văn hóa Việt. Nói chung, theo lối hiểu của người Việt trong cội nguồn Đông Á, phụ tính (父姓) (giữ vai trò mưu sinh) và mẫu tính nói lên hai bản tính tương hỗ của vạn vật như âm dương (陰陽)

    Âm (陰) mang nhiều nghĩa, không chỉ là một yếu tính đối nghịch với dương (陽) và bổ túc cho dương trong vạn vật, mà còn nói lên các đặc tính nhu, đen tối, và xa hơn, những đặc tính nữ giới. Đi xa hơn nữa trong niềm tin tông giáo, âm chỉ cái cõi chết, mang một cuộc sống khác với dương thế. Trong khi trong ngôn ngữ hiện đại (bị ảnh hưởng của toán học và kinh tế), âm chỉ sự thất thiệt, thất thu, bất lợi. Trong bài này, chúng tôi hiểu âm theo tương quan thiết yếu âm dương.

    Nữ tính (女性) và Âm tính (陰性)

    Thứ đến, xin được có vài ý thêm về những chủ trương coi văn hóa Việt là văn hóa mẫu hệ, nông nghiệp, âm tính và về vai trò phụ nữ trong xã hội Việt. Nói chung, đa số những nhà nghiên cứu Việt học đều công nhận tầm ảnh hưởng tối quan trọng của phụ nữ trong xã hội Việt 1, coi đó như là đặc tính căn bản của nền văn hóa Việt. Nhiều luận đề đã được đề ra, và thường ít thấy có phản biện đáng nói. Luận đề thường thấy hơn cả, vị trí quan trọng của phụ nữ là do xã hội Việt cổ đại vốn là một xã hội mẫu hệ, do người mẹ chủ đạo 2 . Chỉ từ khi bị văn hóa Phương Bắc bạo lực khống trị, nên mới đổi thành phụ hệ, 3 và chỉ từ khi tư tưởng Khổng giáo trở thành ý thức hệ, người phụ nữ Việt mới bị tước khỏi cái vai trò chủ đạo trong cuộc sống. Dẫu thế, vì trên căn bản, cuộc sống người Việt vẫn dựa vào nông nghiệp, quanh quẩn trong gia đình và làng xóm, nên xã hội Việt chỉ là bản mở rộng của cuộc sống gia đình. Mà trong gia đình thì vai trò người mẹ về sinh đẻ, nuôi dưỡng mang tính quyết định, bởi vì “Con không cha ăn cơm với cá / Con không mẹ liếm lá đầu đường”.

    Hiển nhiên trên cuộc sống thực tế, tầm quan trọng của phụ nữ vẫn không bị phai nhạt bao nhiêu. Dẫu rằng xã hội có trọng nam khinh nữ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, thì “lệnh ông” (vẫn) “không bằng cồng bà”. 4 Ðể bảo vệ ý kiến trên, không ít nghiên cứu nêu ra chứng tích của những anh hùng dân tộc như hai bà

    Trưng, bà Triệu, vân vân; lấy ngôn ngữ Việt vốn xây dựng trên âm tính làm minh chứng; và sử dụng những thần thoại, nhân thoại, hay những trang dã sử làm bối cảnh lịch sử;5 và nhất là dựa vào văn bản dân gian như cao dao tục ngữ làm luận điểm hậu thuẫn.

    Những lối nhìn trên, một phần nào đó, hẳn có cơ sở. Đó là những mảnh rời rạc, mâu thuẫn, thiếu mầu sắc chủ đạo của một bức tranh mà nếu thiếu quy luật, nguyên lý, chúng không thể tự liên kết để cấu thành một cấu trúc căn bản giúp chúng ta nhìn ra được toàn thể bức tranh. Chính vì vậy, chúng khó có thể chứng minh một cách thuyết phục: (1) Xã hội Việt khác với các xã hội khác, bởi lẽ tuyệt đại đa số các xã hội đều theo mẫu hệ vào thuở sơ khai, và tuyệt đại đa số ngôn ngữ đều lấy âm tính để diễn tả sự, vật, người. mang tính chất mềm mỏng, êm đẹp, dịu dàng, vân vân. (2) Tương tự, những lối nhìn trên càng không thể chứng minh được vai trò đặc biệt của phụ nữ trong xã hội Việt. Bởi lẽ một vài người phụ nữ chưa phải, và càng không thể đại biểu cho tất cả giới phụ nữ. Chúng ta không được phép chỉ lấy một vài nhân vật đại biểu để rồi phổ quát thành tất cả. Một lối suy tư như thế không những sai nguyên tắc khoa học, mà còn tạo ra cái nguy hại bóp méo lịch sử. Người ta sẽ đặt nghi vấn về tính chính đáng trong việc chọn lựa một vài phụ nữ đẹp đẽ, tài ba làm đại diện. Tại sao ta không thể lấy một vài người phụ nữ (tai tiếng hay xấu xí) như mụ Tú Bà, Chung Vô Diệm, và coi họ như là đại biểu nữ giới? Tại sao chúng ta không được phép đưa bà Trần Lệ Xuân hay bà Nguyễn Thị Minh Khai ra làm đại biểu cho tất cả nữ giới tại miền Nam hay miền Bắc? 6 Nếu không thể làm như vậy được, thì ta cũng đâu có lý do chỉ chọn một vài phụ nữ anh hùng (như hai bà Trưng, bà Triệu), thông minh tài cán (như Ðoàn Thị Ðiểm, Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương) để đại diện tất cả nữ giới Việt. Chúng ta chỉ có thể nói, hai bà Trưng, bà Triệu là những người góp sức tạo ra (chứ không phải tạo lên) lịch sử Việt. Tuy nhiên, ba Bà, giống như hai cô Giang, Bắc, chỉ là những cá nhân đơn độc, không thể đồng hóa họ với toàn thể nữ giới Việt. Vả lại, nếu cho ba bà là tất cả lịch sử, hay đại diện cho tất cả nữ giới Việt, thì lịch sử của các nền văn hóa khác cũng có thể yêu sách y hệt như thế. Họ cũng có một số phụ nữ tương tự. Các nữ thần Hy lạp như Sophia, Athina, Venus, Hermes, Siren, thánh Jeanne dArc của Pháp, nữ hoàng Maria-Theresia của Áo, rồi các tiền nhân như bà Nữ Oa, nữ thần Mộc, hay nữ hoàng Võ Tắc Thiên, thái hậu Từ Hi của Trung Hoa đã ảnh hưởng tới lịch sử các nền văn hóa của những nước trên rất nhiều. Nhưng đâu có thể vì thế, mà chúng ta dám cả quyết là các dân tộc trên theo mẫu hệ, hay lối suy tư của họ mang âm tính hay nữ tính. Và nếu quả thật chúng ta có thể coi các kiệt nữ này đại biểu lịch sử của họ, thì lịch sử Việt đâu có khác các lịch sử khác là bao. (3) Thêm vào khó khăn trên, chúng ta còn thấy rằng, lối nhìn dân gian về vai trò của phụ nữ vốn đa chiều, nhiều khi rất mâu thuẫn. Người Việt không nhất thiết chỉ đề cao phụ nữ mà thôi, nhưng cũng thường châm biếm họ. Thí dụ, nếu người Việt có câu “Nhất vợ nhì Trời ba mới tới tôi” thì họ cũng có những câu nói khác ngược hẳn lại như “Ðàn ông sâu sắc trong đời/Ðàn bà cạn xợt như khôi cát lồi.” Hay: “Cô khoe ăn hiếp được chồng/Ðến khi chồng bỏ chổng mông mà gào.” 7

    Ý thức được những khó khăn như đã trình bày ở trên, chúng tôi đi theo một lối tiếp cận khác. Thay vì đặt trọng tâm vào vai trò của người phụ nữ, hay về nữ tính hoặc âm tính, hay về giới tính, chúng tôi đặt lại câu hỏi về lối suy tư của người Việt nói chung: họ suy tư như thế nào về cuộc sống, về thế giới sống, về con người cùng sống, về cách sống chung của họ? Có phải họ suy tư theo lối suy tư của nữ giới, theo âm tính, theo nữ tính? Hay là họ suy tư một cách đặc biệt, theo nguyên lý của sự sống (sinh), nguyên lý của sống làm sao (dưỡng), nguyên lý hỗ trợ sống ra sao (giáo dục), nguyên lý sống hạnh phúc (lạc)? Chúng tôi nghiêng về lối suy tư sau. Lối suy tư này đã từng được chúng tôi khai quật phần nào trong Việt Triết Luận Tập 8 và trong các bài viết gần đây. 9 Ðó chính là lối suy tư mà chúng tôi gọi là lối suy tư mẫu tính (母性).

    Trong những phần sau, tác giả đi sâu hơn vào lối suy tư mẫu tính này, chủ trương rằng, chính mẫu tính, chứ không phải là âm tính hay nữ tính, mới là bản chất của Việt tính. Ðể tránh ngộ nhận, chúng tôi cần minh định nơi đây, đó là mẫu tính tuy rằng đều thấy trong hai tính, cả nam lẫn nữ (và có lẽ trong mọi loài vật), nhưng nữ tính gần với mẫu tính hơn, bởi lẽ nữ tính có đủ các đặc tính của người làm mẹ (motherhood/母親身分) như sinh sản, dưỡng dục, và yêu thương (lạc), vân vân, trong khi bản chất người cha (fatherhood), đàn ông (manhood) không thể trực tiếp sinh sản (mang nặng đẻ đau). Câu “cha sinh mẹ dưỡng” nói lên vai trò cộng sinh, cộng dưỡng, tức tham dự vào sinhdưỡng (parenthood) mà thôi. Thế nên chỉ khi nhận ra được mẫu tính, chúng ta mới có thể hiểu được lối suy tư Việt, và từ đó, nhận ra được vai trò tối quan trọng của nữ tính trong nền văn hóa Việt, bởi lẽ phụ nữ Việt càng gần gũi hơn với lối suy tư này. Như vậy, để trả lời câu hỏi về vai trò của người phụ nữ Việt, chúng ta trước hết phải có một cái nhìn về lối suy tư mẫu tính của người Việt 10 . Lối suy tư mẫu tính đòi buộc ta phải phản tỉnh lại tất cả hệ thống phụ quyền (父權, patriarchy), thấy trong tổ chức, trật tự của xã hội hiện hành dựa trên phụ tính 11 , tức dựa trên một nền văn hóa sức mạnh, quyền lực, dòng giống (đực). Sự xung khắc giữa mẫu tính và phụ tính có lẽ là nguyên do chính giải thích sự xung đột giữa người phương Nam và người phương Bắc (các huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Trọng Thủy – Mỵ Châu), giữa yếu tính “cứng” và yếu tính “mềm,” “đặc” và “rỗng” 12 như thấy trong trống đồng Ðông Sơn. Trong bài này, chúng tôi tiếp tục khai thác và phê bình luận đề của linh mục triết gia Kim Ðịnh (1914-1997) về nguyên lý mẹ 13 và phát triển mẫu tính thành một nguyên lý, giúp ta hiểu bản sắc của nền văn hóa Việt. Theo Kim Ðịnh, chính cái nguyên lý mẹ này mới xứng đáng mang tên minh triết bởi lẽ nó có đủ khả năng “nối kết hai thái cực lại với nhau.” 14

      2-Lối Suy tư về Phụ nữ Việt

      Trước khi bàn về lối suy tư của phụ nữ Việt, người viết xin thú nhận là vì không đủ tư liệu, nhất là những tác phẩm văn chương của nữ tác giả, 15 nên công việc phân tích giới hạn vào các văn bản quen thuộc như Truyện Kiều, 16 và nhất là vào văn chương bình dân như ca dao, tục ngữ và phong dao. Chính vì thế mà luận đề mẫu tính mà chúng tôi trình bày sau đây mang tính chất tạm thời, cần phải được kiểm chứng lại qua những văn kiện, văn bản đầy đủ hơn trong tương lai.

      trong tác phẩm Tìm Hiểu Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, giáo sư Trần Ngọc Thêm viết:

      “Về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức theo nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình (tục ngữ). Lối sống tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.” 17

      Lối thẩm định như trên phản ánh cái nhìn chung thấy nơi các nhà nghiên cứu Việt học. 18 Quả thực, trong xã hội Việt mà đa số học giả như Vũ Ðình Trác, Trần Quốc Vượng, Phan Ngọc, Hoàng Ngọc Hiến, Trần Ngọc Thêm cho là xã hội nông nghiệp, 19 phụ nữ nắm một vai trò rất quan trọng. Nếu so sánh với các xã hội nông nghiệp hay công nghiệp khác thì “địa vị phụ nữ Việt Nam phải nói là cao, nếu không nhất thì cũng vào hạng nhất” 20 hay “ngang với chồng.” 21 Câu hỏi mà chúng ta đặt ra nơi đây, đó là, nếu quả thật người phụ nữ Việt giữ một vai trò tối quan trọng như vậy, thì phải có một cái nguyên lý nào đó đàng sau sự kiện đặc biệt này. Ðó có phải là do xã hội mẫu hệ, hay vì xã hội nông nghiệp, hay vì một lý do nào khác?

      Theo thiển kiến của người viết, những yếu tố trên không phải không có, nhưng chưa đủ. Bởi lẽ, nếu chúng là những yếu tố duy nhất thì tại sao cùng sống trong xã hội nông nghiệp, nhưng phụ nữ Việt lại cao “vào hạng nhất” trong khi phụ nữ ở các xã hội khác lại “thấp lè tè”? Tôi nghĩ, sự khác biệt nằm trong lối suy tư của người Việt về phụ nữ Việt. Lối suy tư cá biệt không bị giới tính, xã hội, hay tổ chức quyết định một cách toàn diện (như giới Việt học từng nhận định). 22 Lối suy tư này (tạm gọi) là lối suy tư mẫu tính. Nó bàng bạc trong óc, qua ngôn ngữ, và trong lối cư xử của người Việt, không phân biệt nam hay nữ. 23

      2.1. Người Việt về Phụ nữ Việt

      Nguyễn Du (1765-1820), trong Truyện Kiều, nhận định về nữ giới một cách rất bao quát, gồm đủ mọi loại người, từ xấu xí tới đẹp đẽ, từ gian tà tới cao quý. Tuy nhiên, điểm chung mà cụ Tiên Ðiền buồn bã nhận ra, đó là cái vai trò quá phụ thuộc, công cụ và bé nhỏ của họ. Họ chỉ là đồ phụ tùng, đối tượng cho “cuộc chơi,” là cái “mồi” của thế giới đàn ông phong kiến hưởng thụ: “Chơi cho liễu chán hoa chê/Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời”. 24

      Nếu phụ nữ có vai trò gì đáng nói, thì cũng rất khiêm tốn, hoặc đáng thương: “Ðau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung/Sống làm vợ khắp người ta/Khéo thay thác xuống làm ma không chồng”. 25

      Nhưng cái lạ (và có lẽ là cái hay) trong tâm tư Nguyễn Du, đó là cụ không có tin tưởng vào vai trò của người đàn ông trong công cuộc san bằng bất công xã hội, trong công việc lập công, lập đức. Cụ không suy tư như tác giả của Thanh Tâm Tài Nhân, tức lối suy tư theo nguyên lý phụ tính (patriarchy) của người phương Bắc. Với lối nhìn mới hơn, không chỉ coi phụ nữ theo nguyên lý lạc thú (giai nhân, mỹ nhân), hay gái tài (kỹ nữ) tức tài nhân. Cụ nhìn người phụ nữ theo nguyên lý mẫu tính của Việt phương nam. Phụ nữ được đánh giá theo chính cái bản chất nhân tài của họ, tức cái năng lực khiến họ thành nhân. Thế nên,Truyện Kiều không lập lại câu truyện của tài nhân, song dóng lên một tiếng nói mới (tân thanh) đau đứt ruột Ðoạn Trường Tân Thanh 26 về cái vai trò độc nhất vô nhị của phụ nữ qua Thúy Kiều, tức cái khả năng thành nhân của nàng: “Thửa công đức ấy ai bằng?” 27 Trong con mắt Nguyễn Du, không có một người đàn ông nào có đủ nhân cách, tài hoa như người phụ nữ. Từ Hải, anh hùng đa tình hữu dõng vô mưu; Hồ Tôn Hiến hữu mưu vô đức; Kim Trọng hữu tài hữu mạo 28 nhưng thiếu đảm lược; Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, nhưng là phường gian manh chẳng khác chi hơn mụ Bạc, hay Tú bà: “mạt cưa mướp đắng hai bên một phường.” 29 Tố Như tin rằng, chính người phụ nữ mới có một khả năng “đầu đội trời, chân đạp đất” (mà giới nam nhi thường hay vơ vào cho riêng họ). Thực ra, cụ đâu có chọn giới nam nhi. Cụ chọn nàng Kiều nhỏ bé để làm những điều vĩ đại đáng để đời; vãi Giác Duyên (chứ không phải những đại cao tang chủ trì đại tự) như là đại biểu của bậc chân tu 30. Nói cách khác, cụ nhận ra sự cao sang và vĩ đại của nữ giới, 31 trong vai trò của Thúy Kiều, trong nhân cách của người ni cô ẩn dật Giác Duyên. Kiều là người duy nhất đã thành công trong nỗ lực vượt khỏi định mệnh, thắng được cái ma lực của quyền lực, của sức mạnh: “Lấy tình thâm trả nghĩa thâm/ Bán mình đã động hiếu tâm đến trời / Hại một người cứu muôn người / Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng /Thửa công đức ấy ai bằng”. 32

      Lẽ tất nhiên, Nguyễn Du không phải là người duy nhất nghĩ như vậy. Anh hùng Nguyễn Trãi (1380-1442), tuy vì nàng hầu Nguyễn Thị Lộ mà bị chu di tam tộc, 33 cũng nghĩ như thế. Chắc hẳn không phải vì cụ Ức Trai bị mê hoặc bởi cái nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của cô nàng bán chiếu. Một người văn võ toàn tài, tuổi chạc ngũ tuần, mang chức đại phu triều đình, đầy quyền uy “nhất nhân chi hạ, vạn nhân chi thượng” như cụ, đâu có thể ngây ngô si tình như chàng thiếu niên Kim Trọng, đâu có dại gái như anh chàng võ biền Từ Hải. Cụ mến phục tài năng, cái trí khôn sắc sảo, và sự khôn ngoan của Thị Lộ. Trong mắt cụ, còn ai trội vượt khỏi cái “ả bán chiếu gon ở Tây Hồ” mà chỉ qua cuộc đối thơ đầu tiên thì cụ đã “phải lòng” ngay? 34 Vậy thì ta phải nói, nhà đại chiến lược họ Nguyễn mến phục và yêu quý giai nhân, bởi vì (đúng như Nguyễn Du mô tả):

      “Người quốc sách kẻ thiên tài/Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. 35

      Nói cách chung, người phụ nữ Việt được mọi người mến phục không phải vì họ là “phái yếu” hay chỉ vì cái sắc “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.” 36 Người phụ nữ Việt được quý trọng cũng không chỉ vì “công dung ngôn hạnh”, tuân phục “tam tòng”. Hơn cả những tiêu chuẩn cụ đồ Chiểu đưa ra, phụ nữ Việt được mến phục vì họ sắc sảo, cương trực (như Ðoàn Thị Ðiểm), thông minh (như Hồ Xuân Hương), hay “sắc đành đòi một, tài đành họa hai” 37 (như Huyện Thanh Quan). Một Mai âm thầm, kín đáo yêu và sống chân thành trong Nửa Chừng Xuân (Khái Hưng), một Ngọc quán xuyến nuôi chồng ăn học, chia sẻ vui buồn với chồng trong Lều Chõng (Ngô Tất Tố)… và nhiều nhân vật tương tự chỉ ra họ mới thực sự là động lực sau người chồng, là trung tâm gia đình, là sức sống dòng giống, là đảm bảo cho tương lai con cháu.38 Nói tóm lại, người phụ nữ Việt là nhân tài đích thực mang bản tính phổ quát và tất yếu như che chở, bao bọc, thương yêu, nuôi dưỡng (bu), thân mật (u, má), tạo ra sự sống (đẻ), những gì làm lên sự vĩ đại (mẫu, mẹ) 39 bao quát, bao bọc (cái) của con người.40

      Không chỉ thế, họ không thua kém nam nhi. Báo được thù chồng mà còn trả được nợ nước (Trưng Trắc), tình nghĩa vẹn toàn 41 mà lại còn đảm đang, “đã giỏi chiều chồng lại khéo nuôi con”, lại thêm “kinh tế giỏi” (chịu đựng được ông chồng nát rượu mê gái ham chơi): “Quanh năm buôn bán ở mom song/Nuôi đủ năm con với một chồng” (bà Tú Xương). 42

      2.2. Mến phục và Yêu thích

      Nơi đây cần phải minh định hai từ ngữ mà chúng ta thường ít để ý và phân biệt, đó là mến phục (quý trọng) và yêu thích. Trong văn chương bình dân, hai từ ngữ này đôi khi được dùng một cách lẫn lộn. Tuy thế, nếu suy xét cho kỹ, ta thấy người Việt nhận định một cách rất minh bạch về hai từ ngữ trên khi họ phân biệt hai loại phụ nữ: loại được mến phục, và loại được yêu thích. Lẽ tất nhiên, loại người vừa được mến phục vừa được yêu thích như Nguyễn Thị Lộ, Ðoàn Thị Ðiểm, Huyện Thanh Quan, hay Thúy Kiều, Mai, Ngọc. luôn là sự mong ước của các đấng nam nhi. Mến phục nói lên sự quý trọng cái giá trị, cái tài (quán xuyến), cái trí, cái đảm, cái tình của người phụ nữ. Ðó là cái mẫu người mà cụ Tiên Ðiền diễn tả: “Càng yêu vì nết, càng say vì tình” (TK, 3188), mà bất cứ ai cũng phải kính, mến, yêu, quý và phục. Hai bà Trưng, bà Triệu, các liệt nữ, hay nữ sỹ, hay Mai, Ngọc hay những người vợ như bà Tú Xương, đại biểu cho phụ nữ có những tính nết trên. Ðây mới chính là cái lý do tại sao “Nhất vợ, nhì Trời, ba mới tới ta”, tại sao ông Tú Vị Xuyên hãnh diện “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó”. Ðây cũng là lý do tại sao các đấng lang quân “biết mình biết người, trăm trận trăm thua” chịu “Vợ anh xấu máu hay ghen/Anh đừng có giỡn về ăn nhiều đòn”. Nói cho gọn, phụ nữ Việt đáng quý, đáng trọng bởi vì họ đảm đang (“Thương nàng gánh gạch về đây/ Chẳng đắp nên núi cũng xây nên thành”), quán xuyến (“Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”; hay: “Thiếp lo sắp gánh sắp gồng/ Bán buôn nuôi mẹ, có chồng như không”), có tình, có nghĩa không thực dụng (“Tưởng lấy anh cho lành manh áo/ Hay đâu lấy anh rồi, bán khố nuôi anh”).

      Họ là hiện thân của bốn nguyên lý sinh, dưỡng, dục lạc như chúng tôi sẽ trình bày trong phần sau bàn về Việt tính và mẫu tính: “Anh đi em ở lại nhà/ Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ/ Lầm than bao quản muối dưa/ Anh ơi, anh liệu chen đua với đời”.

      2.3. Yêu thích

      Chính vì người Việt chú trọng tới tài và đức của nữ giới Việt, nên cái sắc tuy quan trọng, song không phải là yếu tố quyết định để “chọn vợ”. Có sắc và tài nhưng lại thiếu đức thì cũng chỉ là một công cụ làm trò giải trí cho người đàn ông mà thôi. Ðạm Tiên là một ví dụ. Kiều và Mai (vì chưa phát triển cái tài, cái đức một cách hoàn toàn) vào lúc đầu là một ví dụ khác. Chính vì vậy mà người Việt đặt yêu thích vào một phạm trù kém hơn là phạm trù mến phục. Họ yêu thích bởi vì họ quáng gà bởi cái nhan sắc lộng lẫy của nàng: “Rõ màu trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. 43 Họ si tình bởi vì họ bị “cú” sét ái tình làm họ choáng váng, hết cả suy tư: “Thấy em vừa trắng vừa tròn/ Mặt mày sáng sủa chồng con thế nào?”. Ðể rồi khi tỉnh cơn say, khi hồi phục lại sau cú sấm sét, sớm muộn họ sẽ sáng mắt ra. Họ hối hận than thở (nhưng đã quá trễ): “Vợ đẹp càng khổ trong long/ Chè ngon ức bụng, điếu thông cuộn đàm”. Ðể rồi họ nai lưng ra đền cái tội tổ tông muôn thuở: “Vì sàng bên gạo xuống nia/ Vì em anh phải đi khuya về chiều”. Ðể rồi họ sợ, cạch cho tới già: “Lỡ mà lấy vợ Hà Ðông/ Anh sợ sư tử anh giông cho rồi” và khuyên răn con cháu: “Thế gian lắm kẻ mơ màng/ Thấy hòn son đỏ tưởng vàng nâng niu”. Nhưng làm sao thoát khỏi cái tội nguyên tổ: “Sông bao nhiêu nước cũng vừa/ Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng”.

      2.4. Lối Suy tư của Phụ nữ Việt

      Phần trên trình bày phần nào về lối nhìn của người Việt về phụ nữ Việt. Ðiểm quan trọng hơn cả, là chính người phụ nữ Việt suy tư như thế nào về thế giới sống của mình. Ðáng tiếc thay, chúng ta chưa có một câu trả lời xác định. Lý do là đại đa số các văn bản do nam giới viết, và ngay cả các vần thơ gán cho Ðoàn Thị Ðiểm, Hồ Xuân Hương, hay Huyện Thanh Quan, cũng chưa hẳn là của các bà. Mà nếu do chính do họ sáng tác, thì phần vì bị ảnh hưởng của lối giáo dục Nho học, phần vì bị ảnh hưởng của xã hội đương thời, chúng ta cũng khó có thể xác quyết được sự trung thực trong lối suy tư của họ. Ngay cả vào thời đại chúng ta, giới nữ văn sĩ vẫn còn bị gòm bó trong cái truyền thống đạo đức của xã hội và tôn giáo, tức vẫn còn bị lối suy tư phụ tính trói buộc.

      Ý thức như vậy, chúng tôi chỉ tạm đưa ra một cái nhìn chung, mà đa số nữ giới ngày nay công nhận44 , đó là:

      – Người phụ nữ dùng con tim để suy tư. Nói cách khác, chữ tình là một, chữ nghĩa là hai, là những nguyên lý chỉ đạo trong lối suy tư của phụ nữ Việt: “Tình thân bất luận khó, giầu/ Vải to khó nhuộm, cau mày cũng xinh”. Hay: “Tơ tầm đã vấn thì vương/ Ðã trót dan díu, thì thương nhau cùng”.

      Nói như vậy, có phải chúng tôi ý thức được rằng, phụ nữ Việt cũng không khác chi phụ nữ của các tộc khác? Và nếu như thế, thì lối suy tư Việt có phải là một lối suy tư nữ tính hay không? Không hẳn thế! Bởi lẽ, mặc dầu suy tư theo tình cảm, nhưng người phụ nữ Việt không quyết định theo tình cảm. Họ sẵn sàng vì nghĩa (tình nghĩa, hiếu nghĩa, đạo nghĩa, đại nghĩa) mà hoặc hy sinh chữ tình, hoặc thăng hóa chữ tình thành tình nghĩa. Ðây là một lý do phụ nữ Việt là một loại phụ nữ anh hùng. Nếu nước Pháp chỉ có một Jeanne dArc, thì người Việt có hàng trăm hàng ngàn người như thế. Cô Giang, cô Bắc và biết bao người từng hy sinh vì đại nghĩa, từng dâng chồng, dâng con cho tổ quốc, hay hy sinh cho gia đình: “Nàng về nuôi cái cùng con/ Ðể anh đi trẩy nước non Cao Bằng”. 45

      Những Mai, Ngọc, bà Tú Xương… chỉ là những nhân vật thường thấy trong xã hội Việt, không phải họa hoằn (như ở phương Tây hay trong xã hội ngày nay).

      – Người phụ nữ suy tư theo thứ tự giá trị của các nguyên lý: sinh, dưỡng, dục, và sau cùng mới tới lạc (thú). Chính vì thế mà họ chú trọng tới vai trò của người mẹ: “Duyên may, tay bế, tay bồng”; sau tới vai trò của người cha: “Ðời cha vinh hiển, đời con sang giầu”; rồi tới vai trò của người thầy: “Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”; và sau cùng mới tới vai trò của người vợ: “Con quốc kêu khắc khoải mùa hè/ Làm thân con gái phải nghe lời chồng”. Hay: “Trời mưa cho ướt lá bầu/ Vì ai nên phải đi hầu chàng ơi”.

      Ta thấy, phụ nữ Việt ít khi đảo lộn thứ tự cái bảng giá trị trên. Ngay trong cái đạo tam tòng, chúng ta cũng thấy nó dựa theo nguyên lý sinh, dưỡng và dục này: Theo cha, theo con, đều liên quan trực tiếp tới nguyên lý sinh và dưỡng, chỉ có theo chồng mới thêm phần nào vào nguyên lý lạc mà thôi. Từ cái bảng giá trị này, ta có thể hiểu thái độ của Thúy Kiều. Ngay cả khi Kiều yêu Kim Trọng “Ðã nguyền hai chữ đồng tâm/ Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai”, 46 nhưng vẫn chọn lựa cái bảng giá trị sinh, dưỡng, dục trước: “Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha”. 47 Kiều là câu trả lời cho mối nan giải “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?” trong tâm thức người Việt.

      – Người phụ nữ gần với thiên nhiên tức gần với cái lẽ bẩm sinh, nên họ dùng trực giác nhiều hơn lối tính toán vụ lợi. Nói như vậy không có nghĩa là chối bỏ cái khả năng tính toán theo lý tính (rational) của họ. Ngược lại, phải nói là họ tính toán chính xác hơn trong những lãnh vực sinh, dưỡng, dục và lạc. Họ nhận ra một cách rõ ràng vai trò và giá trị của họ trong những lãnh vực này.

      Giá trị sinh, dưỡng, bảo trì cuộc sống: “Ðàn ông cắp chà, đàn bà làm tổ”.

      Giá trị và vai trò nuôi dưỡng con cái: “Con mất cha ăn cơm với cá/ Con mất mẹ liếm lá đầu đường”. Hay: “Ðàn ông không râu bất nghì/ Ðàn bà không vú lấy gì nuôi con”.

      Giá trị dục, nuôi con lên người: “Ðẻ con chẳng dạy, chẳng răn/ Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.”

      Và sau cùng mới tới giá trị lạc (yêu đương): “Ði đâu cho thiếp đi cùng/ Ðói lo thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”.

       

      3-Lối Suy tư Việt tính và Mẫu tính

      Như đã phát triển trong nhiều luận văn, đặc biệt trong Việt Triết Luận Tập, 48 nới đây xin được tóm tắt lối suy tư Việt vào những đặc tính sau:

      – Ðây là một lối suy tư tổng hợp mang tính biện chứng (theo giải thích của Hegel) có mục đích tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn qua giao kết (sinh sản), hòa hợp (sống chung, an định) và thăng hoa.

      – Ðây là một lối suy tư rất cụ thể chứ không trừu tượng, trực tiếp liên quan với cái thế giới họ đang sống trong đó. Tư duy gắn liền với vườn tược, ao cá, đồng ruộng, nhà cửa, cây đa, dàn mướp, đàn gà, con trâu. Lối suy tư mà Vũ Ðình Trác (dựa theo Kim Ðịnh) gọi là suy tư nông nghiệp, đúng hơn phải là “canh nông” 49 vốn khác biệt với lối suy tư du mục. Suy tư canh nông không hẳn đồng nghĩa với nghề hay nghề nghiệp. 50

      – Ðây là một lối suy tư dựa theo cái đạo cảm tính mà người Việt thường gọi là tình nghĩa. 51 Ta biết, cảm tình phát xuất từ những mối tương quan (xa gần, thân mật hay thù nghịch), và được xác định qua một sự tính toán lợi hại từ khía cạnh sinh, dưỡng, dục, lạc, v.v.. Thế nên tình nghĩa chỉ có thể thấy trong sự tương quan giữa con người, con người với thiên nhiên, con người với sự vật. Tình nghĩa càng sâu đậm nếu tương quan càng gần gũi có thể thỏa mãn cùng một lúc các yếu tố sinh, dưỡng, dục, lạc, thú. Tình nghĩa giữa cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, thầy trò, bạn bè (và trong qúa khứ giữa quân thần), là những tình nghĩa sâu đậm bời vì nó biểu tả và thỏa mãn được những yếu tố sinh, dưỡng, dục, lạc, thú. Ta có thể hiểu tại sao đạo ngũ luân được người Việt tuân giữ một cách thành khẩn. 52

      – Ðây là một lối suy tư không mang tính máy móc, cơ khí (mechanistic), và không hoàn toàn bị bản năng cơ thể (organistic) chi phối. Nó được “tính toán” theo nguyên lý hợp lý, theo đó cái lý không cố định, bất biến, phổ quát, nhưng tùy hợp với tương quan giữa người, Trời và đất, tóm gọn trong “phương trình” “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Những giải đáp cho cuộc sống đa số không dựa trên lối tính toán máy móc (như theo chủ thuyết duy lý, duy thực dụng), hay dựa vào bạo lực, nhưng theo nguyên lý hợp lý trên. 53 Hợp lý tức hợp với Trời (Thiên thời), thuận với đất (địa lợi), và hòa với con người (nhân hòa), tức thiên thời, địa lợi, nhân hòa, cũng là tuân theo các nguyên lý sinh, dưỡng, dục, bảo tồn, phát triển và tương quan xa gần. Và từ hợp lý, theo cái lý hòa hợp Trời, đất, người chúng ta xây dựng quy chuẩn sống (đạo đức): Hiếu, nghĩa, trung, nhân, tín, hòa, bình trong Nho giáo nguyên thủy là những quy chuẩn như vậy. 54

      – Ðây là lối suy tư theo phạm trù bản thể (ontological category), tức theo cái bảng giá trị cao thấp của bản chất con người lập sinh, chấp sinh (hiện sinh) và trợ sinh nên không theo thứ tự thời gian, cũng không theo phạm trù lý trí tính toán thực dụng.

      – Ðây là một lối giải quyết vấn nạn theo nguyên lý hòa (dĩ hòa vi quý), hợp (âm dương hợp nhất), sinh (khí), cảm (cảm thông). Lối suy tư này đi ngược lại với lối suy tư dựa trên sức (sức mạnh), lực (quyền lực), cơ cấu (tổ chức), pháp (quy chế). tức lối nghĩ cho rằng hình thức, cơ cấu, tổ chức, bạo lực, đèn ép, chà đạp có thể giải quyết được vấn nạn nhân sinh.

      Từ những lối suy tư trên ta đi tìm cái nguyên lý căn bản đàng sau, và đặt ra câu hỏi: tại sao người Việt lại suy tư theo lối tổng hợp, cụ thể, cảm tính, theo quy luật của bản thể chứ không hình thức. Tại sao họ quy tụ mọi vấn đề theo một thứ tự của sinh (lập sinh, chấp sinh, trợ sinh), dưỡng, dục, lạc (thú); tại sao họ xây dựng bực thang gía trị của họ trên những nguyên lý trên; và tại sao họ đặt nền hy vọng (tôn giáo) của họ trên những niềm khát vọng, ước vọng nhắm thỏa mãn những vấn nạn căn bản liên quan tới sinh (trường sinh), dưỡng, dục và lạc (thế giới cực lạc)? Chúng tôi cho rằng, một lối suy tư như vậy chính là lối suy tư mẫu tính. Và do đó, chúng tôi quả quyết là lối suy tư mẫu tính mới là nền tảng siêu hình xác định Việt tính.

      Nhìn cho kỹ, ta thấy lối suy tư của người Việt (đặc biệt phụ nữ Việt) quả dựa trên mẫu tính thật. Lối suy tư này không chỉ ảnh hưởng tới tổ chức xã hội, gia đình, mà còn ảnh hưởng cả tới nền kinh tế và tổ chức chính trị. Mà quả thật vậy, bất cứ ai (dù nam hay nữ) nếu có đủ những yếu tính của nguyên lý mẫu tính (tức hội đủ sinh, dưỡng, dục và lạc), cũng đều có thể nắm được vai trò then chốt trong xã hội Việt. Như thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ Việt, nhất là người mẹ luôn giữ một vai trò then chốt trong gia đình, xã hội, giáo dục và cả tôn giáo, bởi lẽ họ hội đủ những yếu tính trên. Như thế, chúng ta cũng không lấy làm lạ khi người dân thương mến gọi những vị vua chúa hay thượng quan hội đủ những yếu tính này là “phụ mẫu” (Tư tưởng dân chi phụ mẫu của Mạnh Tử). Hay ít nhất, họ gọi những ai thay thế vai trò của cha mẹ họ là chú, bác, cô dì, vân vân. Và cũng như vậy, chúng ta có thể hiểu được tại sao người Việt khi thì gọi Trời bằng bà, khi thì gọi là ông, khi gọi là anh, khi gọi là bạn, lại có khi gọi là thằng. 55 Họ chỉ gọi Trời bằng mẹ khi Trời hội đủ những yếu tố: sinh (ra chúng ta), dưỡng, dục và lạc thú. 56 Họ sẽ nhạo báng Trời (hay giới thần thánh), hạ cấp thần thánh xuống hàng “thằng” nếu thần hay thánh không sinh ra họ, cũng chẵng nuôi dưỡng họ, mà lại càng không có giáo dục họ, nhưng chỉ biết yêu sách làm khó dễ, hại họ. Nói tóm lại, mẫu tính mới là cái sức mạnh cũng như sức sống của nền văn hóa Việt khiến nó khác biệt với các nền văn hóa khác. 57

      4-Kết Luận

      Từ những phân tích trên, chúng tôi tạm đưa ra một luận đề, đó là, lối suy tư của người Việt là một lối suy tư mẫu tính. Lối suy tư này dựa trên các nguyên lý sau: nguyên lý sinh, nguyên lý dưỡng, nguyên lý dục, nguyên lý lạc. Trong phần tạm kết luận này, một lần nữa chúng tôi duyệt lại qua các văn bản, xem có phải người Việt suy tư theo các nguyên lý trên hay không. Chúng ta nhận thấy:

      -Trước hết, lối suy tư Việt tập trung vào yếu tố sinh. Hay nói cách khác, đó chính là lối suy tư dựa trên đặc tính của người mẹ. Chữ mẹ trước hết tượng trưng cho sự sinh sản. Chính vì thế mà, tất cả những sự vật, nhân vật, hay thần thánh quan trọng nhất đều có một công năng chung, đó là công năng sinh sản. Và cũng chính vì vậy mà người Việt thường dùng từ mẹ, mẫu, bu. để chỉ tất cả những yếu tố tạo ra sinh sản, gồm cả Trời, Trăng, Ðất, Nước, vạn vật, vân vân như: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”; “khai thiên lập địa”; “quê cha đất tổ”; “sinh cơ lập nghiệp”; “sinh sự, sự sinh”, v.v.

      Họ nhấn mạnh đến sự quan trọng của sinh, đến giá trị của sinh, và lẽ tất nhiên đến tâm lý tham sinh húy tử của con người. Trong một tâm thức như vậy, giá trị của người mẹ là sinh con đàn cháu đống. Sự tích Lạc Long Quân – Âu Cơ đẻ trăm trứng, tạo lên cả giòng Lạc Việt, nói lên ý nghĩa của sinh sản. Về điểm này, tư tưởng Việt rất gần với tư tưởng nguyên nho. Chính vì thế mà người Việt coi những cái chi thiếu yếu tố sinh đều kém giá trị. Họ dễ dàng chấp nhận Nho giáo nguyên thủy: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”.

      Hay họ chấp nhận tục lệ vợ bé. Vợ cả tìm vợ bé cho chồng, trong trường hợp không con nối dõi tông đường. Hay người chồng có quyền rẫy vợ, và người vợ nhẫn nhục chịu thiệt thòi trong trường hợp hiếm muộn (Luật Gia Long).

      Ðiều đáng nói là, “vô hậu” nơi đây có nghĩa là tuyệt tự, tức không con, không phân biệt trai gái. Đây cũng là một điểm chỉ ra văn hóa nguyên thủy Việt vốn dựa trên mẫu tính, nên có khác biệt với văn hóa Bắc. 58 Có lẽ, mãi về sau (đúng hơn sau thời Trần), người Việt mới dần dà bị lối nhìn “trọng nam khinh nữ”, “nam ngoại, nữ nội” và đặc biệt “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của phương Bắc thao túng. Nhưng nói chung cũng chỉ ảnh hưởng nơi giai cấp thống trị mà thôi. 59 Ngay trong luật Gia Long, người chồng cũng không có nắm quyền tuyệt đối, như thấy trong nhiều xã hội khác, nhất là xã hội du mục.

      Sinh cũng đồng nghĩa với trường sinh, nối dài cuộc sống, giữ gìn cuộc sống, và phát triển cuộc sống. Trong một tâm tình như vậy, người Việt thường đồng hóa người mẹ với gia đình, với tổ quốc, với đất đai, với nước, với sông, với vườn, với ao, với nhà, vân vân. Những kiểu nói quê mẹ, đất mẹ nước mẹ, nhà mẹ là một lối biểu tả; những sự/vật lớn đẻ ra các sự/vật khác được goi là cái là một lối nhìn khác về mẹ (sông cái, đường cái, vân vân), tất cả đều chỉ ra nguyên lý sinh, hay mẫu tính này. 60

      – Thứ tới, lối suy tư Việt luôn gắn liền với yếu tố dưỡng:

      Người Việt không thể tách rời sinh khỏi dưỡng. Nhiều khi họ đồng nghĩa sinh với dưỡng, thí dụ như câu nói “Cha sinh mẹ dưỡng”. Thế nên, dưỡng nói lên tính chất của bao bọc, che chở, đùm dắt. Chính trong nghĩa này, mà tất cả những ai cộng tác vào việc bảo vệ sự sống, đều được gọi là dưỡng: dưỡng mẫu, dưỡng phụ (hay bố mẹ nuôi), dưỡng đường, dưỡng sinh, vân vân. Trong mạch sống, người Việt nới rộng yếu tố sinh ra dưỡng. Họ coi trọng dưỡng mẫu, dưỡng phụ, hay bất cứ ai nuôi dưỡng họ như chính cha mẹ mình. Tổ quốc, đất nước, hay biển cả, đồng ruộng đều nuôi nấng họ, nên họ thường hay dùng tiếng mẹ hay mẫu để diễn tả tổ quốc (mẫu quốc), đất nước (đất mẹ), quê hương (quê mẹ), biển mẹ, vân vân. Chính vì sự quan trọng của dưỡng, mà người Việt thường đồng hóa mẹ và vai trò nuôi dưỡng: “Mẹ nuôi con bằng trời bàng bể/ Con nuôi mẹ con kể từng ngày”. Hay: “Một mẹ nuôi được mười con/ Mười con không nuôi được một mẹ”.

      Hay: “Công cha như núi Thái sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

      Cũng chính vì sự quan trọng của yếu tố sinh-dưỡng, mà nên luân lý (hay hiếu đạo) của Việt nam xây dựng trên hai nguyên lý sinh và dưỡng này: “Trẻ cậy cha già cậy con/ Ai mà phụ nghĩa quên ơn/ Thì con người ấy chẳng hơn gì bèo.

      Hay: “Hữu sanh vô dưỡng/ Vong ơn bội nghĩa/ Phụ bất tử, con bất từ”.

      • Sau nữa, lối suy tư Việt không thể tách rời khỏi yếu tố dục.

      Bởi lẽ người Việt hiểu công việc giáo dục là một phần của công việc thành nhân, nên giáo dục là một công việc quan trọng không kém sinh và dưỡng: “Ðẻ con chẳng dạy chẳng răn/ Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng”. 61

      Nơi đây, chúng ta phải nói thêm, đó là quan niệm thành nhân. Ðối với người Việt, thành nhân (thành người) tức thành nhân tài. Mà để thành nhân tài thì phải tu thân, luyện đức. Ðể biết ai là nhân tài, ta phải xem tới kết quả của những hành động của họ. Thế nên, nhân tài tức là người anh hùng hào kiệt, vì dân vì nước, lo tròn chữ hiếu, tình nghĩa vẹn toàn, vân vân.

      Theo nghĩa này, thành nhân là người có hiếu, có nghĩa, có tình. Mà để có hiếu, nghĩa, tình thì cần phải giáo dục, tức tu thân luyện tính. Giáo dục thành công, bao gồm hoặc “con hơn cha, nhà có phúc” hay ít nhất phải giống cha, giống me. Thế nên giáo dục không tách rời khỏi sinh và dưỡng: “cha truyền con nối,” hay “nối dõi tông đường.” Nhưng để thành công, vai trò của người mẹ mang tính quyết định, vì hội đủ tri thức, cảm giác, và kỹ năng làm người: “Con có mẹ như măng ấp bẹ/ Con có mạ (mẹ) như thiên hạ có vua”. Hay: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Hay: “Mẹ ngoảnh đi con dại/ Mẹ ngoảnh lại con khôn”.

      Nói tóm lại, lý do người Việt nghĩ rằng người mẹ có nhiều “tài năng” hơn trong việc giáo dục con cái, bởi vì họ nhận ra rằng chữ dục gắn liền với chữ dưỡng và chữ sinh cũng như chữ lạc, mà chỉ có người mẹ mới hội đủ những yếu tố trên. Cũng phải nói thêm nơi đây, đó là, người Việt gắn liền ba yếu tố sinh, dục, dưỡng với nhau, chặt chẽ đến độ, ta không có thể tách rời bất cứ yếu tố nào ra khỏi lối suy tư. Yếu tố lạc tuy quan trọng, nhưng không mang một tầm vóc quan trọng tuyệt đối như sinh, dưỡng và dục: “Công cha như núi Thái sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

      • Sau cùng, lối suy tư Việt cũng không loại bỏ yếu tố Lạc.

      Nơi đây, người mẹ được coi như cái nôi, cái nguồn của lạc thú. Nàng là niềm vui của gia đình. Nàng không đi tìm lạc thú cho mình, nhưng cho chồng, cho con, và cho gia tộc, hoặc rộng hơn, cho tổ quốc. Thúy Kiều cứu cha, cứu mẹ, làm Thúy Vân vui, làm Kim Trọng bớt sầu (yêu cầu Vân lấy Kim Trọng), giúp Từ Hải, vân vân. Những hành động này nói lên người phụ nữ đại biểu của lối suy tư mẫu tính này không từ bỏ yếu tố lạc thú, song nàng dành cái lạc thú này cho người khác, và rất có thể là nàng tìm được một lạc thú cao quý hơn trong chính sự hy sinh của mình: “Tẻ vui bởi tại lòng này/ Hay là khổ tận đến ngày cam lai. 62

      Tương tự, trong văn chương ta cũng thấy những đặc tính tương tự: câu chuyện của Mai, Ðoàn Thị Ðiểm, Huyện Thanh Quan, bà Tú Xương, vân vân, đều chỉ ra cùng một mẫu số: cái lạc thú của người phụ nữ Việt là cái lạc thú làm mẹ: sinh đẻ, che chở, bao bọc, nuôi dưỡng, hy sinh, lo lắng cho con, cho chồng). 63

      Qua phân tích văn bản và phản biện những ý kiến trước đây coi nữ tính như là nền tảng văn hóa Việt, chúng tôi xin được tạm kết luận đề về mẫu tính, chứng minh lối suy tư Việt luôn dựa theo quy luật của một nguyên lý siêu hình mang những yếu tính sinh, dưỡng, dục và lạc. Đó chính là mẫu tính.

      *Trần Văn Ðoàn, Giáo sư Triết học hưu trí Emeritus, Đại học Quốc gia Đài Loan & Giáo sư Nghiên cứu, Viện Hàn Lâm Academia Catholica, Đh Phụ Nhân (Đài Loan) cũng như Thỉnh giảng tại Học Viện Công Giáo Việt Nam (Việt Nam)


      CHÚ THÍCH

      1. Trần Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam – Tìm Tòi và Suy Ngẫm (Hà Nội: Nxb Văn Hóa Dân Tộc, 2000), Phần: “Nguyên Lý Mẹ của nền Văn Hóa Việt Nam”, ctr. 481 vtth. Sau đây viết tắt Trần Quốc Vượng; Ngoài ra cũng phải kể tới: Trần Quốc Vượng, Truyền Thống Phụ Nữ ở Việt Nam (Hà Nội, 1975); Từ Chi, Tìm Hiểu Văn Hóa và Tộc Người (Hà Nội, 1966); Trần Ngọc Thêm, Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam (Sài Gòn: Nxb Tph. Hồ Chí Minh, 2001), Xuất bản lần thứ 3; Kim Ðịnh, Thái Bình Minh Triết (Garden Grove: Thời Ðiểm, 1997), tắt TBMT. Trong TBMT, 23, Kim Ðịnh viết: “Tóm lại, địa vị phụ nữ Việt Nam nói chung tuy vẫn còn những điều phải cải tiến y như các phụ nữ trên khắp hoàn cầu, nhưng khi đối chiếu với các nơi và xét theo luật lệ thì địa vị phụ nữ Việt Nam phải nói là cao, nếu không nhất thì cũng vào hạng nhất.” ↩︎
      2. Bửu Lịch, Nhân Chủng Học và Lược Khảo Thân Tộc Học (Lửa Thiêng, 1970). Ðiểm cần phải nói là đa số các học giả Việt đều đồng nghĩa phụ hệ với nam tính (dương tính) trong khi mẫu hệ với nữ tính (âm tính). Chính vì hiểu như vậy mà Kim Ðịnh tìm đủ mọi cách, gồm cả lối giải thích một cách rất mạo hiểm (nếu không nói là võ đoán) để “chứng minh” mọi nhân vật trong huyền thoại (nhân thoại) như Bàn Cổ, Nữ Oa, Phục Hi là người nữ. Một lối hiểu cách chung như vậy không hẳn sai, nhưng chưa hẳn lột hết ý nghĩa của “hệ.” Hệ nói lên một sự tùy thuộc mật thiết, nhiều khi không thể tách rời được. Thí dụ hệ thái dương, hệ gia đình, vân vân. Nơi đây, phụ hệ hay mẫu hệ không đồng nghĩa với nữ tính hay nam tính. Phụ hệ hay mẫu hệ phải được hiểu từ khía cạnh tổ chức, và nhất là từ yếu tố quyền lực (hay sức mạnh), tức từ câu hỏi “ai có thể giải quyết vấn nạn, ai có thể đảm bảo sự sống còn, vân vân.” Trong thời đại du mục, chiến tranh, hay trong bối cảnh khó khăn cần phải giải quyết bằng sức mạnh hay bạo lực, quyền lực của những người có sức, có lực gia tăng, đôi khi tới tuyệt đối. Hiểu theo nghĩa này, phụ hệ là một tổ chức, chế độ, ý hệ dựa trên sức lực (sức mạnh) của nam giới, trong khi mẫu hệ dựa trên sức mạnh (hay sự thiết yếu) của nữ giới. Tương tự, đảng hệ dựa vào sức mạnh của đảng, chế độ quân phiệt dựa vào bạo lực của quân đội, chế độ phong kiến dựa vào sức mạnh của một nhóm người (quý tộc), trong khi giáo sĩ hệ dựa trên sức mạnh của hàng giáo sĩ (như thấy trong thời Trung cổ, hay tại một số nước theo Hồi giáo ngày nay). ↩︎
      3. Thí dụ Kim Ðịnh, Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, vân vân. Xtkh. Kim Ðịnh, TBMT, 20: “Bên ta tuy có thói trọng nam khinh nữ nhưng đó không phải do Việt Nho mà do Hán Nho.”; Kim Ðịnh, Việt Lý Tố Nguyên (Sài Gòn: An Tiêm, 1970); Trần Ngọc Thêm, 43. ↩︎
      4. Kim Ðịnh, Cửa Khổng, tái bản và hiệu đính của Vương Kỳ Sơn (New Orleans: Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam, 1997); Quang Ðạm, Nho Giáo Xưa và Nay (Hà Nội: Nxb Văn Hóa, 1994); Trần Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam, sđd., 511, phân biệt giữa Nho (Bắc) và Việt (Nam) như sau:
        “Nho giáo Lễ trị – tức là đề cao trật tự vua-tôi, cha-con, chồng-vợ.
        Nho trọng Cha trong khi người Việt trọng Mẹ.
        Nho trọng Chồng trong khi người Việt trọng Vợ.
        Nho trọng Vua tân quần trong khi người Việt trọng Lang đại thống nhất.”
        Nói cách chung, luận đề của các học giả nói trên cho rằng Nho giáo là ý thức hệ của người phương Bắc áp đặt trên người phương Nam nên đã tạo ra một mâu thuẫn về vai trò phụ nữ trong văn hóa Việt. Bị văn hóa Nho gia thống trị, phụ nữ phải giữ đạo tam tòng (tòng phụ, tòng phu, tòng tử), tránh thất xuất (7 tội: không con, dâm dật, thiếu hiếu đạo, nhiều lời, trộm cắp, ghen tuông, ác tật), như Toan Ánh nhận định: “Nền luân lý phong kiến cổ truyền Á Ðông trọng nam khinh nữ và bắt đàn bà phải tùy thuộc đàn ông.” Xem Toan Ánh, Phong Tục Việt Nam (Tái bản) (Gia Ðịnh: Nxb Ðồng Tháp, 1998), 194. Mặc dù bị đè nén, trong tâm thức, người Việt vẫn coi “vợ ngang hàng với chồng” như bộ luật Gia Long từng phản ánh. Xtkh. Toan Ánh, tr. 194. Trích từ P. Varet, Au pays d’Annam, les Dieux meurent, 66: “La code annamite place l’épouse sur le même rang que le mari. Elle est une égale.” ↩︎
      5. Ðặc biệt thấy nơi Kim Ðịnh qua nhiều tác phẩm gồm TBMT; Kinh Hùng Khải Triết (San Jose: Printec, 1984); Văn Lang Vũ Bộ (Sunnyvale: Kelton, 1985?); Sứ Ðiệp Trống Ðồng (San Jose: Thanh Niên Quốc Gia, 1984); Pho Tượng Ðẹp Nhất của Việt Tộc (San Jose: Thanh Niên Quốc Gia, 1985); Hùng Việt Sử Ca (San Jose: Thằng Mõ, 1984). Ngoài ra với những tác phẩm mang tính cách dã sử như Lĩnh Nam Chích Quái (của Trần Thế Pháp, bản dịch của Lê Hữu Mục, Sài Gòn, 1962); Bách Việt Tiên Hiền Chí (Tựa của Âu Ðại Nhậm, 1522); và Việt Ðiện U Linh Tập (bản dịch của Lê Hữu Mục, Sài Gòn, 1962). ↩︎
      6. Trần Lệ Xuân, vợ của Cố vấn Ngô Ðình Nhu, người em của cố tổng thống Ngô Ðình Diệm (1900-1963). Nguyễn Thị Minh Khai vốn là đồng chí cách mạng của cố chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969), vợ của Tổng Bí thư Lê Hồng Phong. ↩︎
      7. Hay: “Ðàn bà yếu chân mềm tay, Làm ăn chẳng được lại hay nỏ mồm.” Tất cả những câu ca dao tục ngữ hay phong dao trong bài này trích từ: Nguyễn Thị Túy Sen và Nguyễn Thị Ngọc Liên, Việt Nam – Ca Dao Tục Ngữ Góp Nhặt (USA: Kim Printings, 1981), và đặc biệt từ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Tục Ngữ Phong Dao Việt Nam (Hà Nội, 1928), Tái bản (Tph. Hồ Chí Minh: Nxb Tph HCM, 1991). ↩︎
      8. Trần Văn Ðoàn, Việt Triết Luận Tập, Tập I (Washington, D.C.: Vietnam University Press, 2000). ↩︎
      9. Trần Văn Ðoàn, “Nguyên Lý Sinh trong Ðạo Hiếu” trong Triết Ðạo, số 2 (2001). ↩︎
      10. Kim Ðịnh, Trần Ngọc Thêm ít phân biệt mẫu tính khỏi âm tính, âm tính khỏi nữ tính, và nữ tính khỏi cảm tính. (Kim Ðịnh, TBMT, 52-58; Trần Ngọc Thêm, ctr. 40-45). Lối hiểu như vậy dễ gây ra ngộ nhận, bởi lẽ âm và dương chỉ ra hai nguồn lực siêu hình, hai đặc tính cá biệt song tương hỗ. Âm không đồng nghĩa với nữ giới, y hệt như dương không hẳn chỉ biểu tả nam giới mà thôi. Chỉ mãi về sau, khi bước vào xã hội nông nghiệp, người ta mới dùng chữ âm tính để chỉ “phái yếu” (nữ), và dương để chỉ “phái mạnh” (nam). Ngoài ra, âm tính (theo Ðạo giáo, và Ðạo Dân gian) thường mang nghĩa chết chóc, độc khí. Vì thiếu phân biệt như vậy, nên Kim Ðịnh đã mất khá nhiều giờ để gãi vào cái chỗ không ngứa. Cụ nỗ lực chứng minh Bàn Cổ, Trời, Hồng Bàng, Phục Hi, Nữ Oa và cả Thần Nông đều mang âm tính, là các bà (hay ít nhất không phải là ông): “Nếu cần phải nói ông với bà thì Bàn Cổ phải gọi là bà mới đúng tục lệ thời thái cổ luôn là mẫu tộc; trời cũng gọi là bà nữa là: Ông Trăng mà lấy bà Trời.” TBMT, 53. Cụ quả quyết cho rằng âm lại trước dương” (nữ). Thực ra, như chúng ta thấy, các bà Nữ Oa, hay hai bà Trưng, bà Triệu. không có “yếu”, họ rất mạnh, mạnh hơn cả phái nam. Họ đội đá vá trời; họ làm cho giới nam nhi run sợ. Dùng từ “âm tính” này để chỉ nữ giới cũng dễ gây ra hiểu lầm. Bởi nếu âm giới chỉ ra một thế giới thiếu sức sống, thiếu ánh sáng, thiếu lý trí, mà nữ giới thuộc âm giới, thì chúng ta không thể hiểu được tại sao người Việt (và đông Á) chủ trương “âm dương hiệp nhất,” hay thuyết tam tài “thiên thời, địa lợi, nhân hòa.” ↩︎
      11. Chúng tôi tạm thời dùng từ phụ tính để nói lên lối suy tư, cách giải quyết vấn đề, kiểu tổ chức xã hội. dựa trên các nguyên lý sức lực, quyền lực, uy quyền, tức dựa trên sức mạnh, bạo lực và hiệu quả của nó. Phu nơi đây không có nghĩa là cha hay bố, mà là những đặc tính của lực, quyền, tức sức mạnh gán cho người trưởng gia tộc, gia đình, bộ lạc (patriachalism) mà chúng ta còn gọi là phụ hệ. ↩︎
      12. Dương Thiệu Tống, “Trống Ðồng – Một Tài Liệu Triết Học Lạc Việt” trong Giáo Dục và Sáng Tạo, số 1 (Tph. Hồ Chí Minh, 1993), 112-114. ↩︎
      13. TBMT, Tựa, và Chương II. Nguyên lý Mẹ do tác giả Bachofen (1851) và Briffault (The Mothers, 1927) đề cập và được cụ Kim Ðịnh nhắc tới trong TBMT. (TBMT, 11, 15). Theo Kim Ðịnh (TBMT, 16), nguyên lý mẹ bao gồm: (1) Ðó là tình yêu thương bao la, mênh mông như biển cả, nên Kim Ðịnh gọi nền triết học xây trên nguyên lý mẹ là thái bình minh triết. (2) Ðó là linh hồn của nguyên nho, hay Việt nho, tức nền nho học trước khi bị Hán nho đồng hóa hay đè nén. (3) Minh triết xây trên nguyên lý mẹ được gọi bằng nhiều tên của các thần nữ như Nữ Oa, Âu Cơ, Vụ Tiên, Hi Hòa, vân vân. (4) Ðó là một nguyên lý nói lên một vũ trụ quan “đầy hoạt lực cao sang chất ngất, mà đồng thời vẫn rất thiết thực và thâm tình.” ↩︎
      14. TBMT,16 ↩︎
      15. Vì bị văn hóa Nho học (và cả các ý hệ khác) đè nén, một số thơ phú mang tên Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Ðoàn Thị Ðiểm không chắc hẳn do chính các bà viết. Thơ của Hồ Xuân Hương (như nhiều người nhận xét) thiếu nữ tính, và đặc biệt chưa đủ mẫu tính. Những tác phẩm của các nữ văn sỹ viết gần đây, thí dụ Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, vân vân, tuy phản ảnh lối suy tư phụ nữ Việt một cách trung thực hơn, nhưng cũng bị thời cuộc, trào lưu (hiện sinh) chi phối không ít. ↩︎
      16. Dựa theo bản của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, Truyện Kiều (Sài Gòn: Tân Việt, 1959). ↩︎
      17. Trần Ngọc Thêm, 43. ↩︎
      18. Ngoài Kim Ðịnh, Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng. còn phải kể đến Vũ Ðình Trác, “Triết Lý Truyền Thống Việt Tộc Dọn Ðường Cho Thần Học Việt Nam”. Trong Trung Tâm Nguyễn Trường Tộ chb., Gặp Gỡ và Thảo Luận về Thần Học Việt Nam (Reichstett: Ðịnh Hướng Tùng Thư, 1997), ctr. 43-78; Phan Ngọc, Văn Hóa Việt Nam và Cách Tiếp Cận Mới (Hà Nội: Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1994); Vũ Ngọc Khánh, Dẫn Luận Nghiên Cứu Folklore Việt Nam (Thanh Hóa, 1991); Ngô Ðức Thịnh, Ðạo Mẫu ở Việt Nam (Hà Nội: Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1996), vân vân. ↩︎
      19. Vũ Ðình Trác, 55 vtth. ↩︎
      20. TBMT, 23. ↩︎
      21. Paul Varet, 66. Trích từ Toan Ánh, 194. Cũng thấy trong TBMT, 22. ↩︎
      22. Lê Văn Siêu, Việt Nam Văn Minh Sử Lược Khảo, Tập Thượng (Sài Gòn: Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục, 1972); Hà Văn Tấn, Văn Hóa Ðông Sơn ở Việt Nam (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1994); Nguyễn Văn Huyên, Góp Phần Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam, 2 Tập (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1995). ↩︎
      23. Luận đề này của chúng tôi ngược lại với luận đề của Kim Ðịnh. Cụ hiểu mẫu tính là âm tính, mà âm tính đồng nghĩa với nữ tính (xem chú thích 9). Trong Việt Lý Tố Nguyên (Sài Gòn: An Tiêm, 1970), tr. 194, cụ viết: “Còn ban đầu là mẹ đi trước. Âm đi trước Dương. Bà nổi lên trước ông. Vì tình cờ hay do sử mệnh mà việc đứng lên tranh thủ độc lập cho nước nhà lại cũng do các bà Trưng, Triệu khai mạc lâu trước rồi mãi mấy trăm năm sau các ông mới lóp ngóp bò ra. Và sau này những bài thơ lãng mạn phóng khoáng nhất cũng lại do nữ giới. Phải chăng Hồ Xuân Hương là đại biểu của văn minh Cồng.” ↩︎
      24. TK, 1211-1212. ↩︎
      25. TK, 83-85, 87-89. ↩︎
      26. Xin xem thêm: Trần Văn Ðoàn, “Chữ Mệnh trong Truyện Kiều” trong Vietnamologica, số 4 (Toronto, 1998). Tái in có sửa chữa dưới tựa đề “Chữ Mệnh trong Truyện Kiều – Tâm Ðạo” trong Việt Triết Luận Tập, sđd., chương 5. ↩︎
      27. TK,2687 ↩︎
      28. TK,151 ↩︎
      29. TK,812 ↩︎
      30. Ðiểm đáng chú ý là lối nhìn Việt về vai trò của phụ nữ ảnh hưởng tới niềm tin tôn giáo của họ. Họ diễn tả Phật Quan Âm như là một người phụ nữ bình thường, biết “lập công lập đức” (Quan Âm Thị Kính). Việc Nguyễn Du chú trọng tới một người nữ tu nhỏ bé, mà họ gọi là vãi, hay ni-cô, phản ánh lối suy tư Việt này. Nơi đây, cụ Nguyễn ngầm ví Kiều với Quan Âm. ↩︎
      31. Người đọc có lẽ sẽ đặt câu hỏi về những người phụ nữ khác như Ðạm Tiên, Thúy Vân, Hoạn Thư, hay những mụ Bạc, Tú Bà. Nguyễn Du thán phục Ðam Tiên nhưng không coi nàng là đại biểu cho nữ giới. Thúy Vân, Hoạn Thư đại biểu cho giới phụ nữ thường tình sống trong khuôn xã hội, bị xã hội quyết định. Họ chưa đủ ý thức về chính mình. Tú Bà hay mụ Bạc chỉ là những công cụ của thế giới đàn ông phong kiến. Những người này, hoặc tuy là tài nhân (Ðạm Tiên), tài mạo (Thúy Vân), hay khuôn thước (Hoạn Thư) vẫn chưa phải là nhân tài. Những phụ nữ như Tú Bà, mụ Bạc hoàn toàn đánh mất cái giá trị của nữ giới. ↩︎
      32. TK, 2683-2687. ↩︎
      33. Theo Ngô Sĩ Liên, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Nhượng Tống dịch (Glendale: Ðại Nam in lại, niên ký không rõ), vụ án “Lệ Chi Viên” (Ðại Bảo thứ 3 (1442), triều Lê Thái Tông). Lê Thái Tông đi Chí Linh ghé thăm Nguyễn Trãi (ở Côn Sơn). Nguyễn Thị Lộ hầu vua. Trong đêm vua đột ngột băng hà. Triều đình ghép tội Nguyễn Trãi dùng Thị Lộ để ám toán vua, lên án chu di tam tộc. ↩︎
      34. Nguyễn Thị Lộ được vua Lê Thái Tôn rất trọng dụng, phong làm Lễ Nghi Học Sĩ, giữ lại trong triều đình giúp vua. Bà có lẽ thuộc số ít người phụ nữ từng làm quan. Thời Mạc đời vua Mạc Kính Cung (1593-1625), tương truyền (rất đáng nghi ngờ không chắc có hay không) bà Nguyễn Thị Duệ, đỗ đầu bảng tiến sỹ ở Cao Bằng, giữ chức Cung Trung Giáo Tập cho cả triều Mạc và triều Lê. Trần Quốc Vượng, 864; trích từ Ðỗ Thị Hảo, Những Bà Giáo Thời Xưa. (Hà Nội: Nxb Phụ Nữ, 44-47). ↩︎
      35. TK, 163-164. ↩︎
      36. TK,26 ↩︎
      37. TK,28 ↩︎
      38. “Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống.” Hay: “Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi.” Hay: “Lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng.” Cũng xin tkh: Hồng Kim Linh, Người Việt (USA: Hồng Lĩnh, 1999), tái bản, ctr. 200-204. ↩︎
      39. Chữ mẹ (mẫu), theo chiết tự và theo tầm nguyên học (tượng hình), diễn tả người đàn bà ôm cho con bú (hai vú nuôi con). Theo tượng ý, chữ mẫu bao gồm: sinh, bao bọc, nuôi dưỡng. Chữ mẹ (chữ Nôm) tuy viết khác (gồm hai bộ nữ, và mỹ hợp lại), song ý nghĩa tương tự như chữ mẫu, cộng thêm ý nghĩa to lớn, vĩ đại. Thí dụ, người Việt gọi con sông lớn là sông cái, hay sông mẹ. ↩︎
      40. Trần Quốc Vượng, tr. 486. Người Việt dùng tứ cái để chỉ những cái gì, sự vật gì, người gì to lớn, vĩ đại, hay quan trọng nhất. Thí dụ: sông cái, đường cái, thúng cái, ngón tay cái, cây cột cái, nhà cái, vân vân. Cái cũng mang nghĩa bao bọc, bao gồm. Thí dụ: cái nhà, cái con, cái thằng, cái ông, cái bà. ↩︎
      41. TK, 2865: “Tình xưa ân nghĩa trả đền”. ↩︎
      42. Trần Tế Xương, “Thương Vợ.” Trích từ: Lữ Huy Nguyên (biên, chọn), Thơ Tú Xương (Hà Nội: Nxb Văn Học, 1998), 40. ↩︎
      43. TK, 1311-1312._ ↩︎
      44. Trong tác phẩm nghiên cứu về triết học nữ tính, dựa trên các nghiên cứu tâm lý, xã hội và văn hóa của Ðài Loan, Tiến sỹ Hà Bội Nhung (Ðh Khoa Hoc Kỹ Nghệ Ðài Loan) đã trình bày một số đặc tính chung thấy trong lối suy tư của phụ nữ Ðài Loan. Họ phần nào rất gần với phụ nữ Việt. Xin tkh. Trần Văn Ðoàn & Hà Bội Nhung, Hiện Ðại Phụ Nữ Triết Học – Ðài Loan Nữ Tính Tư Tưởng đích Khải Minh dữ Phản Tỉnh (Ðài Bắc: Không Trung Ðại Học Xuất Bản Xã, 2002). (Trung ngữ) ↩︎
      45. Hay tương tự: “Anh ơi, phải lính thì đi/ Cửa nhà đơn chếch (chiếc) đã thì có tôi.” “Anh ơi, giữ lấy việc công/ Ðể em cầy cấy mặc lòng em đây.” Hay: “Anh đi, em ở lại nhà/ Hai vai gánh vác mẹ già con thơ/ Lầm than bao quản muối dưa/ Anh đi, anh liệu chen đua với đời.” ↩︎
      46. TK, 555-556. ↩︎
      47. TK, 606 ↩︎
      48. Trần Văn Ðoàn, Việt Triết Luận Tập, sđd., chương 3; Ngoài ra: Trần Văn Ðoàn, Những Suy Tư Thần Học Việt Nam, đương xuất bản, chương 1; Trần Văn Ðoàn, The Category of Relation in the Social Sciences (Taipei: National Sciences Council, 1997) (Monograph); Trần Văn Ðoàn, The Idea of a Viet-Philosophy. Vol. 1. The Formation of Vietnamese Confucianism (Washington, D.C.: Center for The Study of Values and Culture, CUA, 2002). ↩︎
      49. Vũ Ðình Trác, “Triết Lý Truyền Thống Việt Tộc Dọn Ðường Cho Thần Học Việt Nam” , bđd., ctr. 55-58. Cũng xin tkh. Kim Ðịnh, Việt Lý Tố Nguyên (Sài Gòn: An Tiêm, 1970), tr. 168._ ↩︎
      50. Khi dùng từ “canh nông” và tránh dùng từ nông nghiệp (như Vũ Ðình Trác tiên sinh thường dùng), chúng tôi muốn nhấn mạnh tới lối suy tư và lối sống gắn liền với đất, với nước, với cây cỏ, với thiên nhiên. “Canh” (耕) (canh tác/耕作, canh điền/耕田, canh trồng/耕種, canh địa/耕地…) nói lên cách sống với đất, với nước, trong khi “nông nghiệp” (nghề nông) nói lên một sự chọn lựa một lối sinh sống, một cái nghiệp nhờ vào đất/nước. Tuy vậy, chúng ta nên lưu ý là, tuy chọn nghiệp nông, ta không hẳn hòa đồng với thiên nhiên, nếu không sống với đất/nước. Thí dụ giới đại điền chủ, hay thậm chí giới nông nghiệp hiện đại, theo chủ thuyết sống dựa, nhờ vào hay làm giầu từ đất đai. Họ không sống với đất đai. Vì không sống với đất đai, họ sẵn sàng, phá hoại thiên nhiên, bán đất vì lợi nhuận._ ↩︎
      51. Về nghĩa, xin xem Trần Văn Ðoàn, “The Category of Yi (Nghĩa) in Vietnamese Confucianism” trong Nguyễn Văn Tài, Trần Văn Ðoàn eds., Confucianism in Vietnam (Ho Chi Minh City: University of Social Sciences and Humanities, 2002). ↩︎
      52. Trần Văn Ðoàn, The Category of Relation in the Social Sciences, sđd. ↩︎
      53. Chúng tôi từng phát triển nguyên lý hợp, và quan niệm hợp lý(reasonableness) trong nhiều tác phẩm: Trần Văn Ðoàn, “Synthesis in Dialectical Materialism and Ho in Chinese Philosophy” trong Asian Culture Quarterly, Spring 1985, Vol. XIII, No 1, 1-20; Trần Văn Ðoàn, Reason, Rationality, Reasonableness. (New York – Lanham: The University Press of America, 1989), tái bản: Washington, D.C.: The Center for The Study of Values and Philosophy, Catholic University of America, 2001. ↩︎
      54. Trần Văn Ðoàn, The Idea of a Viet-Philosophy, vol. 1. The Formation of Vietnamese Confucianism, sđd.; Trần Văn Ðoàn, “Confucianism in Vietnam” trong The Encyclopedia of Chinese Philosophy (London: Routledge, 2002). ↩︎
      55. Trời là đấng tạo hóa: “Trời làm đất, đất làm trời.” Trời là đấng quyền uy: “Trời làm một trận phong ba/ Chồng tôi như đứa bán gà chợ phiên.” Trời vừa sinh vừa dưỡng: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ.” Trời có lòng thương: “Trời nào có phụ ai đâu/ Hay làm thì giầu, có chí thì nên.” Trời có lòng nhân: “Trời chẳng đóng cửa nhà ai.” Ðùa bỡn với Trời: “Trời làm một trận lăng nhăng/ Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông.” Giận Trời: “Trời sao trời ở chẳng công/ Người ba bốn vợ, người không vợ nào.” Trời giận: “Trời đánh, thánh vật.” ↩︎
      56. “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy bát cơm đầy, lấy cá rô to.” ↩︎
      57. Ðây có lẽ là điểm then chốt mà các triết gia Kim Ðịnh, Vũ Ðình Trác tuy nhận ra, song không diễn tả một cách minh bạch, đặc biệt khi cụ Kim Ðinh phân biệt Việt nho ra khỏi Hán nho, nguyên nho ra khỏi các nền nho học khác (Hán, Tống, Minh, Thanh). Việt Lý Tố Nguyên, hai chương 6 và 7, 145-195. ↩︎
      58. Trần Quốc Vượng, 483-484. Giáo sư họ Trần viết, 483: “Vậy rõ ràng là trong công việc gia đình-xã hội, phụ nữ Việt Nam đều đóng vai trò chủ động, và nói chung chưa hề có chuyện “Thuyền theo lái, gái theo chồng”, mà thật ra NGƯỢC LẠI như các tuyên ngôn Lễ Nho của các cụ đồ, ngày sau.” ↩︎
      59. TBMT, 21-23; Trần Quốc Vượng, 486. ↩︎
      60. Trần Quốc Vượng, 485: “Người Việt xưa gọi Mẹ là Cái, kiểu như: Tháng chín thì quít đỏ trôn, Tháng ba ngái mọc cái con tìm về.” Hay câu tục ngữ bình dân: “Con dại, cái mang.” Chú ý là chữ cái (nôm) hoàn toàn khác nghĩa với chữ cái trong Hán ngữ, mặc dù giữ lại bộ cái (ăn mày). Trong Hán ngữ, cái có nghĩa ăn mày (cái bang), yêu cầu, calcium (dịch), cái nhiên (có thể có), hay cái thế (hơn người). Trừ hai chữ cái nhiên và cái thế viết như nhau, mỗi chữ cái đều viết và có ý nghĩa khác nhau. ↩︎
      61. Dậy con từ thuở còn thơ, Dậy vợ từ thuở bơ vơ mới về. Hay: Cá không ăn muối cá ươn, Con không nghe mẹ trăm đường con hư. ↩︎
      62. TK, 3209-3210. ↩︎
      63. Thơ Tú Xương, “Thương Vợ.” ↩︎