Press "Enter" to skip to content

Giá trị triết học đặc sắc…

Giá trị triết học đặc sắc của quan niệm “Thường” và “Vô thường” trong nhân sinh quan Phật giáo thời Trần

PGS. TS. Lê Thị Lan

Viện Triết học. Viện HLKHXHVN

Phật giáo thời Trần phát triển cực thịnh cùng với sự thịnh vượng của Việt Nam thế ký XIII-XIV, không chỉ tạo nên những giá trị tinh thần độc đáo trong sự phát triển đời sống văn hoá-tôn giáo Đại Việt thế kỷ 13-14 mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ đất nước và xây dựng nền hoà bình, thịnh vượng của triều đại nhà Trần. Đứng trên phương diện tác động của tinh thần tới hoạt động xã hội, nhân sinh quan Phật giáo thời Trần, trong đó có nhận thức triết học cốt lõi về mối quan hệ giữa “Thường” và “”vô thường” trong đời sống xã hội, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển quốc gia Đại Việt thời kỳ này.

1-Nhận thức về Thường và Vô thường trong nhân sinh quan Phật giáo thời Trần

    Về mặt triết học, nhân sinh quan là yếu tố quyết định hành động, lối sống của mỗi người. Phật giáo lấy việc trang bị nhân sinh quan Phật giáo cho dân chúng là bước đi trước tiên trong giáo hóa đạo Phật, từ đó mới hướng dẫn người dân tu tập, thực hành giáo lý, truy cầu giải thoát. Các nhà Phật học thời Trần, trong các trước tác cuả mình đã thể hiện một quan niệm nhân sinh đặc sắc với chủ đích xây dựng một đạo sống theo Phật giáo, mà đạo sống này sẽ đem lại sự giải thoát thực sự cho dân chúng cả trên trần gian và các kiếp sau. Nhân sinh quan đó bao gồm các vấn đề căn cốt của đạo Phật như quan niệm về sắc thân, về sinh lão bệnh tử, về thuyết luân hồi, nghiệp báo, nhân quả, về tâm không, về các phép tu Thiền…. nhưng tựu trung lại, đều dựa trên hai quan niệm cơ bản là “Thường” và “Vô thường”.

    1.1-Quan niệm về vô thường

    Triết học Phật giáo thời Trần cho rằng mọi sự vật hiện tượng đều chịu sự chi phối của luật vô thường sinh trụ hoại diệt. Con người cũng chịu sự chi phối của luật vô thường như mọi sự vật hiện tượng khác nên sự tồn tại của con người không phải là tồn tại chân thực, không thường tồn, là vô ngã. Cuộc đời của con người không tồn tại lâu dài, là vô thường. Tấm thân của mỗi người (sắc thân) do cha mẹ sinh ra, nhưng sự sinh ra ấy là do “niệm nhóm, duyên tụ; ngũ uẩn hợp thành” 1 . Sắc thân do vậy là giả tưởng, là hư huyễn, không tồn tại lâu dài và chân thực. Trần Thái Tông chỉ rõ nguyên nhân con người không được giải thoát là bởi vô minh, không nhận thức được chân lý vô thường. Vì con người ta không hiểu rằng thân mình là vô ngã, cuộc đời là vô thường nên mới chìm đắm ở bến mê, trôi dạt trong bể khổ và qua lại vòng luân hồi, lên xuống trong khoảng bốn núi (tức là bốn nỗi khổ lớn: sinh, lão, bệnh, tử) 2 .

    Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung thì khẳng định mọi sự vật hiện tượng sinh ra hay tiêu vong đều do tâm khởi, niệm khởi mà thành hay diệt: “Niệm khởi, tâm tâm khởi, Tâm vong, niệm niệm vong” 3 . Do đó, ông quan niệm không nên bận tâm về lẽ sống chết, nên thuận theo nhân duyên: “Cuộc đời như đám mây nổi luôn luôn thay đổi nhiều vẻ” 4 và con người cũng như vậy, sống chết là vô thường, đều do nhân duyên mà nên: “Sống chết về đâu chớ hỏi quanh, Nhân duyên thời tiết tự nhiên thành” 5 .

    Trần Thái Tông quan niệm thực chất sự tồn tại của sắc thân trong cuộc đời mỗi người chỉ là một giai đoạn hóa sinh trong vòng luân hồi. Vì cuộc đời là vô thường nên con người bất kể trai gái, giàu nghèo, đẹp xấu… đều tất yếu phải trải qua bốn núi sinh, lão, bệnh, tử. Con người khi không giác ngộ lẽ vô thường của cuộc đời thì cũng như con rối bị lục tặc (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sai khiến, do vậy họ chỉ chú ý tranh giành danh lợi, tham tiếc tài sắc, lo lắng bị già, bị bệnh, bị chết… nên vì thế mà tạo ra vô vàn nghiệp xấu. Nhưng, khi giác ngộ được lẽ vô thường của cuộc đời con người thì họ sẽ không còn tham, sân, si nữa, không còn bị lục căn, lục tặc lôi kéo, cám dỗ nữa, sẽ có được cái Tâm an định, và như vậy sẽ được giải thoát khỏi những nỗi khổ của cuộc đời do vô minh gây ra. Vì vậy, Trần Thái Tông kêu gọi dân chúng hãy tỉnh thức, sớm quay đầu nhìn lại, giác ngộ lẽ sinh tử vô thường để tu hành theo Phật pháp, để sớm được giải thoát khỏi chốn tử sinh.

    Trần Thái Tông chỉ rõ sắc thân chính là gốc của khổ, là nghiệp nhân. Nếu con người tự coi thân đó là tồn tại chân thực (quả chân), tức là đã nhận kẻ thù làm ruột thịt. Ông đã chỉ rõ sự thật phũ phàng rằng sự tồn tại của sắc thân chỉ là phù du. Vẻ đẹp của gấm hoa, hương sắc, vàng ngọc trang hoàng bên ngoài sắc thân chỉ là để che đậy cho “gáo đầu lâu”, “túi da thối”, “bọc máu nồng”…. Sắc thân ấy do lục tặc chi phối nên con người ta đã nhận lầm là có thực và tìm mọi phương cách để tranh giành mối lợi danh bất kể to nhỏ, nhằm thỏa mãn cái sắc thân đó. Chúng sinh không biết rằng sắc thân không thể thoát khỏi quy luật hóa sinh, phải đối diện với nỗi khổ của sự già lão, đớn đau của bệnh tật để rồi đi tới mệnh chung, chỉ còn là cái xác chết thối tha, bầm tím nơi nghĩa địa quạnh hiu hoang vắng, thần sầu quỷ khóc. Đó là quy luật vô thường của sắc thân, bất kể địa vị sang hèn, giàu nghèo, tài sắc thế nào cũng đều không thể tránh khỏi.

    Giải thích thêm về lẽ vô thường của đời người, một mặt, Trần Thái Tông khẳng định thân xác con người là tồn tại hư huyễn, cuộc đời là vô thường, nhưng mặt khác, ông cũng cho rằng trong lục đạo của chuỗi luân hồi, trừ đường trời (thiên đạo) thì sắc thân khi được cha mẹ sinh ra trên đời, đã trở thành một thân mệnh, là điều đáng quý, đáng trọng hơn cả vàng bạc, châu báu. Mặc dù khẳng định sinh mệnh không thoát khỏi lẽ vô thường, nhưng Trần Thái Tông cũng cho rằng trong xã hội nhân sinh, sinh mệnh là vô cùng đáng quý. Sự đáng quý của sinh mệnh được thể hiện ở ba điều khó đạt của sinh mệnh trong thế gian. Cái khó thứ nhất là khó được làm người. Để được sinh ra làm người trong vòng lục đạo, sinh mệnh phải đủ duyên nghiệp được sinh vào cõi người, không phải sinh vào kiếp Atula, ngạ quỷ, súc sinh hay bị đày xuống địa ngục. Vì vậy, được làm người là vô cùng đáng quý. Cái khó thứ hai là sinh mệnh khó được sinh ra vào nơi văn minh. Không phải ai cũng được sinh ra làm người ở nơi văn minh, mà nhiều người sinh phải nơi mọi rợ, lạc hậu, không được hưởng sự dạy dỗ tốt đẹp, thuần hậu, “Không được gió nhân, không nhuần thánh hoá”6. Và điều khó gặp thứ ba của thân mệnh là có người tuy sinh ra ở đất nước văn minh nhưng lại không đủ sáu căn, không toàn bốn thể, khiến cho mọi người xa lánh. Người bẩm sinh bất toàn như vậy thì dù có ở nơi cao sang lộng lẫy cũng không khác gì ở nơi hoang sơ, mọi rợ. Do vậy, theo Trần Thí Tông, những ai đã được làm người, sinh ở nơi văn minh, có đầy đủ lục căn, tứ thể vẹn toàn thì phải biết trân quý tấm sinh mệnh ấy, phải hiểu rằng đó là nghiệp quả, phước đức từ kiếp trước mà có được 7.

    Nhưng, thân xác con người bất kể sang hèn đều chịu sự chi phối của luật vô thường, không cách nào tránh được, vậy thì phải trân quý sinh mệnh bằng cách nào? Để trân quý tấm sinh mệnh ấy một cách đúng đắn thì theo Trần Thái Tông, người ta phải nhận thức được lẽ Thường, nhận thức được sự tồn tại chân thức vĩnh cửu của Tâm Phật, tập trung vào cái tâm, biết cách tu tập cái tâm để đạt tới sự giải thoát cả tinh thần và thể xác. Nghĩa là, càng quý trọng thân mệnh của mình thì càng phải giác ngộ đạo pháp tối cao thường trụ, giác ngộ chân lý đạo Phật về nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, vô thường, vô ngã. Quý thân mệnh là phải nhận thức được thân mệnh ấy là hư huyễn, vô ngã, cuộc đời ấy là vô thường để đi theo con đường tu nhân tích đức, xả bỏ lợi danh, gieo trồng nhân thiện, để tinh tiến trên con đường giải thoát khỏi các nỗi khổ, thoát khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo. Đó là cách chân chính nhất để trân quý thân mệnh của mình.

    Như vậy, Trần Thái Tông khẳng định sự vô thường của đời người, sự hư ảo của thân mệnh nhưng ông hoàn toàn không phủ nhận giá trị của cuộc sống, của thân mệnh. Thậm chí, ông còn dựa vào nhận thức về lẽ vô thường đó để khẳng định sự trân quý của sinh mệnh con người và cuộc đời hơn tất cả của cải, châu báu trên đời. Nhưng trân quý sinh mệnh, theo Trần Thái Tông không phải là chiều theo tham, sân, si, chiều theo đòi hỏi vinh hoa phú quý, ăn ngon mặc đẹp của thể xác phàm tục do lục căn, lục tặc xúi giục. Trân quý sinh mệnh và cuộc đời là phải nhận thức được và thừa nhận lẽ vô thường của đời người, để giác ngộ các chân lý thường hằng của Phật giáo, để xây dựng một lối sống đúng đắn giúp cho con người được thoát khỏi kiếp luân hồi và đạt tới sự tồn tại chân thực, thường hằng trong cõi Trời, cõi Niết bàn.

    Cũng thừa nhận sinh mệnh là vô ngã, cuộc đời là vô thường, sự tồn tại của mỗi người trong trần gian chỉ là một kiếp trong muôn kiếp luân hồi, con người phải giác ngộ lẽ vô thường và đi theo đạo sống của Phật giáo để giải thoát khỏi nỗi khổ cuả cõi trần và thoát khỏi vòng luân hồi, Trần Nhân Tông chỉ ra lối sống đúng dắn nhất, đó là “Cư trần lạc đạo”, sống tuân thủ các quy luật tự nhiên của sự sống, các phép tắc đạo đức nhân nghĩa, từ bi hỉ xả của xã hội và vui theo đạo pháp 8. Tuân thủ các luật tự nhiên và xã hội là trân trọng thân mệnh thể chất. Giác ngộ, thực hành, vui theo đạo Phật là trân trọng thân mệnh tâm linh. Thực hiện được triết lý “Cư trần lạc đạo” đó sẽ đạt tới giải thoát, đạt tới sự thường hằng.

    Như vậy, nhận thức về Vô thường được các nhà Phật học thời Trần đặt trong mối quan hệ với lẽ Thường hằng của Phật giáo.

    1.2- Nhận thức về Thường hằng

    Từ quan niệm về sự vô thường của đời người, của sắc thân như trên, các nhà Phật học thời Trần cho rằng “Tuy nhiên nói thân mệnh là đáng trọng, nhưng cũng còn chưa trọng bằng cái đạo tối cao”. Bởi vì thân mệnh đáng trọng như vậy, khó gặp như vậy nhưng cũng không thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Trần Thái Tông cho rằng các bậc thánh nhân như Lão Tử, Khổng Tử đều là người khinh thân mình mà trọng đạo bởi thấu lẽ vô thường: “Khổng Tử nói: “Sớm nghe đạo, chiều chết có thể được rồi”. Lão Tử nói: “Ta sở dĩ có điều lo lớn là vì ta có cái thân”. Đức Thế tôn cầu đạo, quên mình cứu hổ. Há chẳng phải ba bực thánh nhân khinh thân mình mà trọng đạo đó sao” 9.

    Các nhà Phật học thời Trần nhận thức cái Thường hằng theo nhiều góc độ, phương diện khác nhau, và gọi lẽ Thường hằng bằng nhiều thuật ngữ như là Đạo, là Phật, là Tâm Phật, là “nương sinh diện”, là “quê hương”… Theo Trần Thái Tông, Đạo Phật chính là cái Thường hằng, Thường tồn, là Chân lý, là sự tồn tại chân thực đáng quý hơn hết thảy. Giáo lý cơ bản của Phật giáo về Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Nghiệp, Luân hồi chỉ rõ đó chính là chân lý thường tồn chi phối cuộc đời vô thường. Thường hằng, thường tồn không phải là cái gì khác ngoài chính những chân lý chi phối toàn thể vũ trụ, trong đó có con người, mà Phật giáo đã chỉ ra.

    Về quan hệ giữa Thường và vô thường, các nhà Phật học thời Trần đều thống nhất trong kiến giải về sự xuất hiện của thế giới giả tượng vô thường. Thiền tông đi sâu vào bản thể thường tồn là Tâm, là Phật. Trần Thái Tông cho rằng chân tâm vốn như gương, do vọng niệm mà trở nên mờ tối, do đó mà niệm khởi, duyên hội, ngũ uẩn hợp thành thế giới giả tượng: “Pháp tính như như, không vướng mảy may niệm lự. Chân tâm lặng lặng xưa nay vốn dứt bụi nhơ. Chỉ vì bị che lấp nên vọng duyên mới khởi, ảo thể hiện thành” 10. Do vậy, Trần Thái Tông khẳng định, muốn vượt vòng luân hồi lục đạo, vượt khỏi vô thường đời người chỉ có con đường tu nhất thừa (bồ tát) giới-định-tuệ, con đường của Phật giáo 11.

    Đi sâu hơn lý giải về cái Thường hằng, Thường tồn, Tuệ Trung Thượng sĩ cho cái thực tồn thường hằng đó chính là “nương sinh diện” – gương mặt người mẹ -, là Đạo, là Tâm, là nguồn gốc sinh diệt của mọi sự vật hiện tượng: “Ai là người hiểu được mặt người mẹ, Mới tin rằng người và trời đều là giả danh” 12 .Trần Tung gọi Bản thể thường trụ đó là vua tâm, “không tướng cũng không hình” 13, vô cùng khó để nhìn ra bản thể vua tâm bởi “Cái tâm thực hay dối đều là bụi cả” 14 . Theo ông việc dùng vọng niệm, lục thức không thể giúp nhận ra được cái bản thể thường trụ đó: “Trình bày rõ ràng những điều trông thấy, Là tự ấn tay mình vào mắt, làm cho mắt nhìn thành kỳ quái” 15 . Ông chỉ ra con đường giải thoát khỏi vô thường là phải trở về với Phật tính, trở về với bản tâm hồn nhiên như đứa trẻ thơ, tập trung vào điều tiết Tâm và Niệm đến khi đạt tới trạng thái “tâm tự tắt” 16 .

    Trần Nhân Tông kế tiếp quan niệm của Trần Thái Tông và Trần Tung về “Thường hằng”, xác tín rõ cái Thường tồn, Chân lý, cái Tâm ấy chính là Phật, là Phật tính có trong mỗi con người, là cái Tâm không, là của báu không cần đi đâu để kiếm tìm, chỉ cần hướng nội giác ngộ cái Tâm Phật ấy mà thôi: “Trong nhà sẵn của báu đừng tìm đâu khác. Đối diện với cảnh mà vô tâm, thì không cần hỏi Thiền nữa” 17 .

    Như vậy, dù gọi tên cái Thường tồn, Hữu hằng bằng nhiều từ khác nhau như Đạo, Phật, Nương sinh diện, Tâm, nhưng các nhà Phật học thời Trần đều có cách hiểu thống nhất về cái Thường hằng, đó là những chân lý Phật giáo chi phối thế giới vô thường và đều thống nhất quan niệm về giải thoát là giác ngộ đạo Phật, tu tập theo con đường giới, định, tuệ để chế khắc cái tâm đạt tới tâm không. Nói cách khác, giác ngộ Phật giáo và sống theo Đạo Phật là con đường vượt qua vô thường đạt tới thường hằng. Đây là sự giải thoát về mặt tâm trí của sinh mệnh, là con đường tâm linh, tuyệt đối không phải là sự giải thoát về mặt thân xác do vô thường chi phối. Nhưng giữa thân xác tứ đại và tâm có mối quan hệ sinh diệt tương liên, nên sự giải thoát tâm trí, đạt tới tâm vô, tâm không thì cũng là sự giải thoát của thân tứ đại khỏi sự vô thường của sinh lão bệnh tử.

    Như vậy, xét trên phương diện nhận thức luận, mối quan hệ giữa Thường và Vô thường là quan hệ song hành giữa hai chân lý Phật giáo. Nhưng xét trên phương diện bản thể luận, Thường tồn là bản thể tạo tác, chi phối thế giới giả tượng Vô thường. Còn xét trên phương diện nhân sinh quan, đời người là vô thường nên tất yếu con người mong cầu đạt tới trạng thái thường tồn, đạt tới giá trị thường tồn, đó là đạt tới Tâm Phật. Vì thế, nhân sinh quan Phật giáo thời Trần rất chú trọng tới giáo dục đạo sống hay con đường tu tập Phật giáo cho dân chúng.

    2-Ảnh hưởng của quan niệm Thường, Vô thường tới xu hướng tu tập và hoạt động nhập thế của Phật giáo thời Trần

    Chủ trương giáo dục nhân sinh quan Phật giáo cho dân chúng, với ý nghĩa như một ý thức hệ chính thống của triều đại đã được khởi đầu từ vua Trần Thái Tông và được tiếp nối bởi các vị vua kế nhiệm. Chủ trương này đã thể hiện rõ ý thức tạo dựng và củng cố đường lối lấy Phật giáo làm nền tảng tinh thần trong đạo trị nước của nhà Trần, cho thấy phương pháp chính trị minh triết trong xây dựng nền văn hóa dân tộc của các vị vua đầu nhà Trần. Theo đó, nhận thức về Thường và Vô thường trong nhân sinh quan Phật giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ tới xu hướng tu tập và hoạt động nhập thế của Phật giáo thời kỳ này.

    2.1-Xu hướng tu tập Phật giáo thời Trần

      Từ quan niệm nhân sinh quan về Thường và Vô thường, các nhà Phật học thời Trần, nhất là Trần Thái Tông, rất chú trọng giáo dục nhân sinh quan và con đường tu tập theo Phật giáo cho nhân dân.

      Trước khi đi vào những phương thức tu tập cụ thể, Trần Thái Tông cảnh báo chúng sinh chớ tin vào tà sư, phải tìm được bậc chân tu, phải tìm được chính kiến. Có chính kiến, có hiểu đúng được Phật pháp rồi thì mới tìm thấy lối vào tu tập, mới mong được thoát tục.

      Chính kiến ở đây chính là nhận thức nhân sinh quan đúng đắn rằng thân mệnh chỉ là hư vọng. Đời người trăm năm chỉ là phút chốc trong kiếp luân hồi trùng điệp. Công danh nhất mực cũng chỉ như giấc mộng kê vàng. Phú quý hơn người cũng chỉ là vô thường. Tranh hơn thua rồi cũng thành không, khoe tài giỏi rồi cũng vô ích 18 . Chỉ khi nhận thức được chân lý thân mệnh vô ngã, cuộc đời vô thường thì con người ta mới có nhận thức chân chính, đúng đắn về cách thức quý trọng thân mệnh bằng cách từ bỏ vọng niệm về những giá trị hư ảo của sắc thân để cầu cái chính giác vô lượng (sự giác ngộ hoàn toàn, cao nhất, Tuệ giác, Bát nhã, Phật). Đó là mục đích của Trần Thái Tông muốn mọi người tích cực đi vào con đường tu hành để tránh sự mê lầm, để “trở về quê hương”, trở về với bản lai diện mục, để kiến tính thành Phật.

      Tiếp theo, để bước vào tu tập, trước hết con người phải giác ngộ được tính Không. Các nhà Phật học thời Trần đều quan niệm rằng bản thể chân thực của vạn pháp là Không: “Nguyên lai, tứ đại vốn là không, ngũ uẩn cũng chẳng có. Từ không khởi ra hư vọng, hư vọng sinh ra mọi sắc tướng mà sắc tướng là từ cái chân không. Thế là hư vọng từ không, không lại biểu hiện thành hư vọng, hư vọng sinh ra mọi sắc tướng ” 19 . Tính Không thời Trần được hiểu theo lập trường Bát nhã (Trí tuệ), thế giới hiện tượng vốn là không, “Bốn núi chót vót muôn khóm xanh, Hiểu ra thì tất cả là hư vô, vạn vật là không20 nhưng do vọng niệm, do cái tâm chấp cảnh mà khởi niệm, niệm khởi thì duyên khởi. Trần Thái Tông đồng nhất tính Không với Phật tính, với cái thường trụ chân thực, sử dụng hình ảnh “Quê hương” để diễn tả về cái Phật tính, Tự tính nhằm để khuyến cáo và kêu gọi mọi người hãy tu tập để trở về với bản tính chân thực, trở về với Phật tính như là trở về với quê hương vậy.

      Khi con người ta chưa giác ngộ được tính Không, chưa giác ngộ được Quê hương, Phật tính thì con người vẫn mãi vô minh, mãi mãi không thoát khỏi bể khổ sinh lão bệnh tử và vòng luân hồi: “nổi trôi nơi bể khổ”, “đến nỗi khiến cho qua lại sáu đường, xuống lên bốn núi” 21 . Vì vậy, giác ngộ tính Không là bước quyết định để bước vào con đường tu tập đạo Phật.

      Các nhà Phật học thời Trần đều cho rằng con người ai cũng có Phật tính, cũng có thiện căn,cũng có thể giác ngộ Phật giáo và khuyến khích mọi người đi vào con đường học đạo, tu tập theo đạo Bồ đề: “Vật kia còn có thể giác ngộ, sao người chẳng biết hồi tâm… Nào biết Bồ đề giác tính, ai nấy viên thành; hay đâu trí tuệ thiện căn, người người đều đủ” 22. Trần Thái Tông cũng cho rằng có nhiều con đường, cách thức tu tập, không kể bằng cách tại gia hay xuất gia, cho dù là đại ẩn hay tiểu ẩn… chỉ cốt ở giác ngộ được chữ Tâm, đều có thể tu tập để rõ tính thành Phật. Trần Nhân Tông còn nhấn mạnh việc tu tập cốt ở giác ngộ Phật tại tâm, khi đó không cứ phải tìm tới nơi rừng sâu núi thẳm mà dù ở ngay nơi thành thị phồn hoa cũng có thể tu tập để giác ngộ: “Mình ngồi thành thị, Nết dụng sơn lâm, Muôn nghiệp lắng an nhàn thể tính” 23 .

      Như vậy, giác ngộ đạo Phật, giác ngộ được bản thể chân thực trong mỗi con người là Tâm, là Phật tính, là lẽ thường duy nhất chân thực, là quê hương mà con người có thể tu tập để trở về, để đạt tới giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi chính là bước quan trọng thứ hai trên con đường tu tập đạo Phật.

      Bước thứ ba là các phép tu tập.

      Các nhà Phật học thời Trần đều cổ súy cho phép tu thiền. Trần Thái Tông cho rằng có nhiều cách thức tu tập để đạt tới giác ngộ và giải thoát, nhưng cách thức chân chính nhất là phép tu thiền.

      Phép tu thiền giúp làm cho chân tâm trở lại tĩnh lặng, trong sáng, để dập tắt vọng duyên, có vậy mới thấy được chân tính, bản thể, nhận thức được cái bản thể thường trụ là Không, là Vô và hướng đích cuối cùng là giải thoát khỏi Vô thường luân hồi. Tu thiền là sự từ bỏ vọng niệm, vọng tâm để đến với trạng thái vô niệm của tâm, đến trạng thái Tâm Không, Tâm Vô. Con đường ấy trải qua các bước trì giới, thiền định, cuối cùng là tuệ. Giải thoát luận nói rằng, giới định tuệ là nói về con đường giải thoát. Giới nghĩa là uy nghi; định nghĩa là không loạn; tuệ nghĩa là hiểu biết. Giới là giai đoạn đầu; định là giai đoạn giữa; tuệ là giai đoạn cuối của thiện. Trần Thái Tông coi trọng phép niệm Phật trong tu tập, cho rằng con đường của chư Phật chỉ có kinh Phật mà thôi bởi những điều trong kinh không ngoài ba việc: giới định tuệ.

      Theo Trần Thái Tông, mục đích của niệm Phật là nhằm khơi dậy nghiệp chính và dập tắt ba nghiệp chướng do thân, miệng và ý gây ra. Vì vậy, để dập tắt niệm ác, khơi dậy ý nghĩa chân chính không gì bằng niệm Phật. Khi niệm phật, người tu hành phải ngồi ngay thẳng, miệng tụng lời chân chính, ý chăm chú ở sự tinh tiến, như vậy sẽ dập tắt được những hành động, lời nói, ý nghĩ xằng bậy. Bậc thượng trí có thể nhờ niệm Phật mà khiến tâm trong sáng, không động, đạt tới cảnh trí thân Phật là thân ta, Tâm tức Phật. Bậc trung trí nhờ niệm Phật mà tiêu diệt được ý nghĩ, trở về chính đạo, khi qua đời sẽ được niềm vui cõi Niết bàn. Còn kẻ hạ trí nhờ niệm Phật sẽ ngày đêm tu tập chăm chỉ, khi mệnh hết sẽ theo ý nghĩa thiện mà sinh ở nước Phật, lĩnh hội được chính pháp, được Phật quả. Ông đặc biệt chú trọng việc đọc kinh sám hối, ví lễ sám hối có tác dụng “rửa sạch bụi nhơ trên thân trong dạ”. Ông cho rằng người tu thiền cũng giống như việc dùng xe trên bộ, dùng thuyền trên sông, giúp việc đi lại được thuận lợi. Theo ông, sức mạnh của lễ sám hối, nhờ sức Phật và tư duy thuận thiện mà những nghiệp ác tích tụ từ hàng trăm nghìn kiếp có thể bị tiêu trừ trong một ngày, một phút 24 . Chúng sinh thành kính, quy y lễ sám sẽ giúp cho tâm thân họ được thanh tịnh như bụi sạch gương trong, như ngọn đuốc xua tan đêm tối. Chính Trần Thái Tông khi ở ngôi cao, lo triều chính, “việc dân vất vả, việc nước bộn bề” cũng luôn tự xét mình, không bao giờ dám lơ là việc tự sám hối để ngăn cản lục tặc cám dỗ, gìn giữ thiện căn. Công dụng của lễ sám hối lớn lao như vậy, nên Trần Thái Tông đã soạn “Lục thì sám hối khoa nghi” chia lễ sám thành sáu thời, mỗi thời ứng với một căn để dạy dân chúng sám hối những tội lỗi do lục căn gây ra. Phép sám hối này là sự kỳ công tổng hợp các kinh luận và nghi văn của Trần Thái Tông với tinh thần “biên soạn ra phép tự làm lợi cho mình để làm lợi cho người” 25.

      Trần Tung là một đại thiền sư của nhà Trần lại chủ trương trở về với cái bản nhiên thường tồn bằng cách “Thoát khỏi bụi trần ồn ào mà rong chơi ngoài cõi thế, Mỗi lần gột rửa là mỗi lần nghỉ ngơi 26, gột sạch những phiền não trong lòng. Và Trần Nhân Tông thì chú trọng tinh thần “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” (Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo) 27 ) [27], chủ trương tu tập luôn gắn với cuộc sống, không tách rời nghĩa vụ xã hội với nghĩa vụ tôn giáo.

      Mặc dù có nhiều phương pháp tu thiền khác nhau tùy theo phẩm chất của người tu tập nhưng trì giới, niệm Phật, ngồi thiền là ba phương pháp căn bản mà Phật giáo thời Trần khuyến khích người tu tập thực hành để thanh lọc thân tâm, kiềm chế được lục tặc, định được tâm, từ đó mở ra huệ nhãn giác ngộ chân lý nhà Phật.

      Như vậy, nhân sinh quan Phật giáo về Thường và Vô thường đã ảnh hưởng trực tiếp tới phương pháp tu tập theo Thiền phái Trúc Lâm, đặc biệt với sự ra đời Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử dưới triều Trần, với hai đặc điểm nổi bật là chú trọng tu tập bằng lối sống giản dị, thuận theo tự nhiên và không đối lập nghĩa vụ tôn giáo với nghĩa vụ xã hội. Nhân sinh quan Phật giáo chú trọng lấy Tâm Phật là thường trụ, là điểm tựa và đích đến để thoát khỏi vòng luân hồi vô thường và chú trọng phép tu thiền trọng sự tinh tấn tự thân, không dựa vào ngoại lực này đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới tinh thần nhập thế của Phật giáo thời Trần.

      2.2-Ảnh hưởng tới lối sống nhập thế

        Bằng chính cuộc đời cống hiến cho đời, cho đạo của mình, các vị vua đầu thời Trần là những tấm gương nhập thế với tinh thần Đông A, đem lại sức chinh phục, cuốn hút dân chúng đi theo lối sống vừa thuần thiện, an lạc, vừa hào sảng, phong lưu có một không hai trong lịch sử dân tộc. Vua Trần Thái Tông coi ngai vàng như chiếc giày cỏ, có thể tháo bỏ bất cứ lúc nào để hiến trọn cuộc đời cho Phật giáo nhưng đã theo lời khuyên của Quốc sư Trúc Lâm đại sa môn Viên Chứng trở về kinh thành, vừa chuyên tâm cai trị đất nước, vừa gắng sức nghiên cứu Phật học. Ông trở thành vị vua vĩ đại của nhà Trần đã lãnh đạo quân dân chiến thắng quân Nguyên xâm lược, xây dựng nên chế độ chính trị độc đáo Thượng hoàng- Quan gia (vua cha và vua con) cùng quản trị, vận hành quốc gia; bảo trợ và phát triển Phật giáo thành đạo sống của dân tộc, thành cốt lõi nền văn hóa Đại Việt dưới triều Trần. Bằng cuộc sống và học thuật của mình, Trần Thái Tông là người mở đường, khuyến khích dân chúng theo lối sống nhập thế của Phật giáo, vừa trọn vẹn các nghĩa vụ của cuộc đời, vừa tu tập giải thoát vòng sinh tử luân hồi, coi nhẹ danh lợi vô thường, coi trọng sự giải thoát vĩnh cửu. Lối sống nhập thế của ông nhanh chóng lan tỏa, làm nên một phong khí tinh thần đẹp đẽ và hào hùng của xã hội thời Trần. Trong chiến tranh, quân dân, tướng sĩ đều xả thân vì nước. Trong hòa bình, danh lợi, hiềm nghi đều nhường chỗ cho sự đồng lòng trị nước, chăm lo đời sống nhân dân theo tinh thần “lấy dân làm gốc”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”. Những chính sách kinh tế, văn hóa trọng dân khởi đầu từ Trần Thái Tông, được duy trì lâu dài qua nhiều triều vua đã làm nên sự phục hưng cường thịnh của Đại Việt kéo dài gần hai thế kỷ.

        Trần Nhân Tông kế thừa xuất sắc đường lối nhập thế của ông nội và phát triển đường lối đó tới đỉnh cao với sự cực thịnh của Đại Việt. Việc từ bỏ ngôi vị thượng hoàng sau khi đất nước đã thanh bình, sau khi ông đã hoàn thành mọi nghĩa vụ của vị quân chủ để xuất gia toàn tâm cho sự phát triển của Phật giáo, lập nên phái thiền Trúc Lâm Yên Tử là đồng nhất với tinh thần “cư trần lạc đạo” của ông. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cổ súy cho lối sống giản dị thuận tự nhiên, lối tu tập đơn giản theo đúng giáo lý giới định tuệ, chú trọng tự lực để đạt tới giải thoát đã phát triển mạnh mẽ trong đời sống Phật giáo thời Trần và lan tỏa ảnh hưởng tới nhân dân, góp phần tạo nên lối sống giản dị, coi nhẹ danh lợi, chú trọng các giá trị tinh thần của Đại Việt thời kỳ này.

        3-Kết luận

          Nhân sinh quan Phật giáo thời Trần với những đại diện như Trần Thái Tông, Trần Tung, Trần Nhân Tông đã thâu tóm những yếu chỉ căn bản của Thiền học một cách dễ hiểu nhất, đồng thời giáo dục các phép tu tập Thiền học, hướng dẫn dân chúng giác ngộ đạo Phật, xa lánh cám dỗ phàm trần, biết yêu quý thân tâm của mình một cách sáng suốt để tinh tấn trên đường tu đạo giải thoát tâm linh. Sự tổng hợp và hệ thống những yếu chỉ nhân sinh quan Thiền học dựa trên quan niệm về Thường và Vô thường của Phật giáo thời Trần không chỉ có ý nghĩa hướng dẫn Phật giáo thời Trần phát triển theo tinh thần Thiền học, giúp cho người tu thiền đương thời và hậu thế tránh được những mê lầm trong nhận thức và thực hành thiền mà còn giúp phổ biến, thu hút quảng đại dân chúng hướng tới tu Thiền theo tinh thần giản dị, thuận tự nhiên, trọng tự lực. Và quan trọng hơn cả, nhân sinh quan Phật giáo thời Trần trọng Tâm Phật thường tồn, giác ngộ lẽ vô thường cuả cuộc đời đã ảnh hưởng sâu sắc và tạo lập nên lối sống coi nhẹ danh lợi, an nhiên trước vô thường, cư trần lạc đạo độc nhất vô nhị trong lịch sử dân tộc. Lối sống mà giúp cho cả hai mục tiêu trong đường lối chính trị của nhà Trần: vừa phụng đạo, vừa yêu nước, vừa hộ quốc vừa an dân đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Những giá trị lớn lao nói trên của nhân sinh quan Phật giáo thời Trần đã trở thành một nền tảng quan trọng trong giáo lý của Phật giáo Việt Nam. Đến nay, nhân sinh quan Phật giáo thời Trần vẫn còn có ý nghĩa định hướng cho hoạt động và phát huy vai trò của Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

          Tài liệu tham khảo:

          1. Tổng tập văn học Việt Nam.Trần Thái Tông.  Khóa hư lục. Bàn rộng về sắc thân. Tập 2. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội. 1997. Tr. 60. ↩︎
          2. Tổng tập văn học Việt Nam.Trần Thái Tông.  Khóa hư lục. Nói rộng về bốn núi. Tập 2. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội. 1997. Tr. 50. ↩︎
          3. Tổng tập văn học Việt Nam.Trần Tung.  Gợi bảo học trò. Tập 2. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội. 1997. Tr. 213. ↩︎
          4. Tổng tập văn học Việt Nam.Trần Tung.  Thói đời hư ảo. Tập 2. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội. 1997. Tr. 221. ↩︎
          5. Tổng tập văn học Việt Nam.Trần Tung.  Thời tiết an định. Tập 2. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội. 1997. Tr. 217. ↩︎
          6. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái Tông. Khóa hư lục. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề. Tập 2. Sđd. Tr. 63. ↩︎
          7. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái Tông. Khóa hư lục. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề. Tập 2. Sđd. Tr. 63. ↩︎
          8. Tổng tập văn học Việt Nam.Trần Nhân Tông. Cư trần lạc đạo phú. Tập 2. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội. 1997. Tr. 374-381. ↩︎
          9. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái Tông. Khóa hư lục. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề. Tập 2. Sđd. Tr. 64. ↩︎
          10. Trích theo Lịch sử  Phật giáo Việt Nam (1988). Nguyễn Tài Thư chủ biên. NXB KHXH. Hà Nội. Tr. 220 ↩︎
          11. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái Tông. Khóa hư lục. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề. Tập 2. Sđd. Tr. 68 ↩︎
          12. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Tung.Thời tiết an định. Tập 2. Sđd. Tr. 217 ↩︎
          13. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Tung. Vua tâm. Tập 2. Sđd. Tr. 202. ↩︎
          14. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Tung. Gợi bảo mọi người. Tập 2. Sđd. Tr. 194. ↩︎
          15. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Tung. Kiến giải. Tập 2. Sđd. Tr. 185. ↩︎
          16. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Tung. Chợt hứng làm thơ. Tập 2. Sđd. Tr. 197. ↩︎
          17. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Nhân Tông. Cư trần lạc đạo phú. Tập 2. Sđd. Tr. 381. ↩︎
          18. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái  Tông. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề. Sđd. Tr. 64. ↩︎
          19. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái  Tông. Nói rộng về bốn núi. Sđd. Tr. 50 ↩︎
          20. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái  Tông. Bài kệ về bốn núi. Sđd. Tr. 51. ↩︎
          21. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái  Tông. Nói rộng về bốn núi. Sđd. Tr. 50 ↩︎
          22. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái  Tông. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề. Sđd. Tr. 68 ↩︎
          23. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Nhân Tông. Cư trần lạc đạo phú. Tập 2. Sđd. Tr. 374 ↩︎
          24. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái Tông. Tựa Lục thì sám  hối khoa nghi. Tập 2. Sđd. Tr. 135. ↩︎
          25. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Thái  Tông. Tựa Lục thì sám  hối khoa nghi. Sđd. Tập 2. Tr. 136. ↩︎
          26. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Tung. Ra khỏi  bụi trần. Tập 2. Sđd. Tr. 199. ↩︎
          27. Tổng tập văn học Việt Nam. Trần Nhân Tông. Cư trần lạc đạo phú. Tập 2. Sđd. Tr. 381. ↩︎

          Comments are closed.