Press "Enter" to skip to content

Chỉ có Công Lý khi có Tự Do

Chỉ có Công Lý khi có Tự Do

Giới thiệu Lý Thuyết Công Lý của John Rawls*

Nguyễn Hữu Liêm

A. Dẫn nhập

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bản dịch của A Theory of JusticeMột Lý Thuyết về Công Lý – của John Rawls do Phạm Quốc Việt chuyển ngữ. Nhiều nhà xuất bản sách tiếng Việt đã mong muốn có một bản dịch Việt ngữ cho độc giả về công trình lớn lao và ảnh hưởng nầy nhưng vì chiều dày cả về số trang và tư tưởng của nó đã khiến cho sự ra đời bản dịch đã không thể làm được cho đến hôm nay.

John Rawls, cựu giáo sư triết học tại Harvard, được xem là triết gia Tây phương về triết học chính trị hàng đầu trong thế kỷ 20. Từ khi ra đời từ năm 1971, cuốn sách nầy đã được công nhận là một công trình triết học về luật pháp, chính trị và đạo đức ảnh hưởng nhất ở Âu Mỹ trong vòng một trăm năm qua.

Một Lý Thuyết về Công Lý (Lý Thuyết) là một tác phẩm đồ sộ, đòi hỏi người đọc phải dày công tâm ý nhằm nắm được tinh yếu triết học mà tác giả đề ra. Để giúp độc giả tiếng Việt có một bản đồ hướng dẫn cơ bản cho công trình lý thuyết rất trừu tượng và sâu sắc nầy, trong bài Giới Thiệu này, chúng tôi sẽ phác họa những nét chính của luận thuyết về công lý của Rawls đã được ông cập nhật trong suốt bốn thập kỷ qua.(2) Ở đây, chúng tôi không phân tích cũng như không đưa ra những phê phán về nó – mặc dù nội dung của những luận đề cơ bản và ảnh hưởng của tác phẩm này đã được tranh luận và mổ xẻ ròng rã và sâu rộng bởi các triết gia hàng đầu của Tây phương trên cả bốn mươi năm qua.(3) Đây là một đề án lý thuyết cơ bản cho vấn nạn công lý cho nhân loại. Vì thế, nó cần phải được đọc. Không ai được xem là nắm rõ được tinh hoa triết học chính trị Tây Âu mà không thông hiểu tác phẩm nầy. Có thể nói rằng, khi đối diện với tình trạng bất công mà giới cùng khổ của nhân loại phải kinh qua, công trình triết học nầy của Rawls đứng ngang hàng với hệ tư tưởng của Marx nhằm giải quyết rốt ráo vấn nạn bất công chính trị, xã hội và kinh tế.

B. Một tuyên ngôn chính trị

Đây là một tuyên ngôn chính trị trên cơ bản giá trị của tự do. Rawls quan niệm rằng chỉ có công lý khi mỗi con người là một công dân tự do và được bình dẳng trên bình diện chính trị. Vì thế, công lý khởi đi bằng tự do chính trị. Nếu bước đi tiên khởi này không được giải quyết, công lý chỉ là ảo tưởng. Từ đó, Lý Thuyết là một nỗ lực xây dựng một nền tảng triết học chính trị cho ý niệm công lý. Nó bao gồm một nền tảng lý thuyết cho dự án về một nền móng định chế cơ bản nhằm kiến tạo, bảo tồn và phát huy công lý trên bình diện xã hội và tự do trên cơ sở cá nhân.

Rawls viết,

Công lý là đức hạnh thứ nhất cho các định chế xã hội, cũng như chân lý là của các hệ thống tư tưởng. Một lý thuyết dù có lộng lẩy hay tiết độ gì đi nữa, nhưng mà nếu nó sai thì phải bị bác bỏ; cũng như thế, luật pháp và định chế dù có hiệu năng hay hoàn chỉnh đến đâu cũng cần phải được cải tổ hay dẹp bỏ nếu chúng là bất công.

Tình trạng bất công, nếu có, chỉ có thể được chấp nhận đến mức cần thiết để tránh một thứ bất công khác to lớn hơn. Từ đó, chỉ tiêu của công lý là cấu trúc cơ bản của xã hội trên một hệ thức chính trị (political scheme), mà trong đó, nội dung và quy trình công lý tuỳ thuộc vào phương cách mà các quyền hạn tự do căn bản và trách nhiệm công dân được phân định song song với cơ hội tiến thân kinh tế và quyền lực được chia sẻ công bằng và hợp lý.

Công lý phải được đặt cơ sở trên quyền cơ bản của con người. Rawls viết tiếp,

Mỗi người đều có quyền bất khả xâm phạm trên nền tảng công lý cho dù quyền lợi của cả xã hội cũng không thể bị phủ quyết. Vì lý do đó, công lý từ chối sự phủ nhận tự do của một số người có thể được bù trừ bởi lợi ích của kẻ khác… Cho nên, trong một xã hội công bằng, quyền tự do bình đẳng của công dân là chuyện phải được chấp nhận; những quyền hạn bảo đảm được bởi công lý không thể được gia giảm vì lý do chính trị hay là về những tính toán cho lợi ích xã hội.… Khi là những đức hạnh hàng đầu của sinh hoạt con người, chân lý và công lý là hai điều không thể được nhân nhượng.

C. Luận thuyết về Công lý

1. Từ bối cảnh và truyền thống triết học Tây phương, Rawls muốn dựng lên một triết thuyết mới. Trong Lời nói đầu, Rawls giải thích mục đích của tác phẩm rằng,

Trong hầu hết các triết thuyết về đạo đức cận đại thì các hệ thuyết đều có nội dung chủ nghĩa “hữu dụng” (utilitarianism) (4). Một trong những lý do là “hữu dụng luận’ đã được cổ vỏ bởi nhiều triết gia lừng danh với một dòng tư tưởng đáng nể phục trên cả tầm mức lẫn phẩm chất. Có lúc chúng ta cũng đã quên rằng những lý thuyết gia theo trường phái hữu dụng như Hume, Adam Smith, Bentham và Mill (5) đã là những nhà lý thuyết về xã hội học và kinh tế học hàng đầu; và chủ thuyết mà họ đưa ra đã dành cho nhu cầu rộng lớn hơn trong một cơ đồ lý thuyết phổ quát. Những chỉ trích về thuyết hữu dụng đều chỉ nằm ở mức độ giới hạn khi nhắm đến tính chất mơ hồ của tính hữu dụng và sự mâu thuẫn và không tương đồng giữa chủ thuyết hữu dụng với những hệ quả từ nó cũng như là cảm nhận đạo đức (tự nhiên) của chúng ta. Tôi tin rằng họ (những người chống hữu dụng luận) đã không kiến tạo được một ý niệm đạo đức khả thi mang tính hệ thống để đối đầu với hữu dụng luận. Từ đó, chúng ta thường bị bắt buộc chọn lựa giữa hai vế của hữu dụng luận và trực giác luận (intuitionism).(6) (1971: vii-viii)

Lý Thuyết của Rawls là một con đường khác, tránh được sự kẹt lối đạo đức của hữu dụng luận và tính mơ hồ của trực giác luận. Hữu dụng luận quan niệm rằng công lý được quyết định bằng công thức, “Cái tổng kết thỏa đáng nhất cho tổng số cá nhân tham dự” (The greastest net balance of satisfaction summed over all the individuals belonging to it). Điều này có nghĩa là công lý phải bảo đảm việc tạo ra lợi ích (thỏa mãn) tổng hợp lớn nhất cho cộng đồng, mà lợi ích tổng hợp lớn nhất này là lợi ích của mọi cá nhân tham dự cộng lại, dù trong đó, sự thỏa mãn cho mỗi cá nhân không đồng đều, ngay cả tăng lên hay giảm xuống. Trong khi đó trực giác luận nhấn mạnh đến khả năng cảm nhận đạo đức và giá trị trong mỗi hoàn cảnh mà lý tính không có khả năng biện minh qua sự phán đoán hay tính toán lợi hại được.

Tuy nhiên, Lý Thuyết của Rawls vẫn nằm trong truyền thống khế ước xã hội vốn đã được khai phá bởi nhiều triết gia Tây phương xưa nay từ Locke, Rousseau đến Kant.(7) Trong suốt cả tập sách gần 600 trang, Rawls đến cập đến Marx rất ít, chỉ nói phớt sơ qua chỉ có một câu, và còn lại là một vài chú thích ngắn.(8) Trong cuốn Restatement thì Rawls coi Marxism là một chủ nghĩa thuần lý tưởng mà trên bình diện lý thuyết đã vượt qua biên độ của nguyên tắc công lý và quyền hạn khi những nhu cầu này đã không còn là những vấn nạn; và trong cuốn Restatement cũng có đưa ra những trả lời cho những chỉ trích từ cơ sở chủ thuyết Marxism.

2. Luận đề căn bản của Rawls là “Công lý là công bằng,” (Justice as fairness). Mục tiêu là nhằm xây dựng một cơ sở nguyên tắc công lý nhằm cai quản một trật tự xã hội ổn định và đa nguyên lý. Nguyên tắc công lý này được đặt trên nền tảng những cá nhân tự do và bình đẳng (free and equal persons) với quyền hạn và trách nhiệm, quyền tự do chính trị và quyền tự do cá nhân (personal and political liberties) và quyền bình đẳng cơ hội trong một cơ chế xã hội muốn xếp đặt quyền lợi và cơ hội thăng tiến cho mọi người, đặc biệt là những thành phần ít lợi thế nhất (the least advantaged).

3. Rawls bắt đầu hệ thống luận thuyết của mình từ nền tảng một cá thể thuần lý thuyết (a theoretical person) bị bao phủ bởi một “màn che vô minh”, veil of ignorance, muốn phác họa một xã hội công lý trong khi không biết thế đứng hay địa vị xã hội (social status) của mình. Từ vị thế khách quan này, cá thể xây dựng định chế công lý cho xã hội mà không bị quyền lợi và tính chủ quan đánh mất tính khả thi, hợp lý và công minh cho hệ thống mà mình muốn xây dựng lên cho toàn thể xã hội đa nguyên lý cho nhiều thế hệ. Rawls gọi bước đi từ vô minh này là “vị thế nguyên khởi” (original position) để từ đó, con người lý thuyết qua tiến trình có tính thủ tục thuần tuý (pure procedural process) có thể tạo dựng một tập hợp các nguyên tắc công lý cho mọi người, nhất là giới thấp nhất và kém lợi thế nhất.

4. Luận thuyết công lý này mang bản chất khế ước xã hội mà trong đó cá thể đồng ý dựng nên định chế cho mình, cho xã hội, và đồng ý bị cai chế (regulate) bằng hệ thống định chế này – cho dù trên cơ sở đặc thù cá nhân, họ có thể sẽ không được hưởng những quyền hạn và quyền lợi tối đa nếu tuân thủ theo. Đây là một ý niệm liên đới (associational conception) trong mối tương quan giữa những hội viên của một tập hợp đa dạng và đa nguyên lý. Quan niệm liên đới này mang bản sắc chính trị trên cơ sở quốc thể hiện đại (modern nation-state). Quốc thể (nhà nước-quốc gia) này là một đơn vị xã hội, “một hệ thống công bằng trên sự hợp tác bình đẳng qua thời gian, từ thế hệ này sang thế hệ khác.” Tính liên đới này là của những công dân trong một định chế cấu trúc cơ bản của xã hội (basic structure of society) mà họ “bước vào bằng sinh và bước ra với tử.”

5. Bởi vì đây là một quan niệm chính trị, “công lý trên cơ sở công bằng” không phải là một hệ thống lý thuyết toàn diện (comprehensive doctrine)(9) về đạo đức, triết học hay là siêu hình. Một luận thuyết về công lý nếu mang tham vọng toàn diện, comprehensive, sẽ tự nó mang tính mâu thuẫn nội tại trên bình diện logic và nội dung. Trong điều kiện chính trị và xã hội của các định chế tự do, vấn đề đương nhiên phải chấp nhận là sự hiện diện đồng thời những hệ thống giá trị và chủ thuyết khác nhau, bất tương đồng, mà không ít chủ thuyết trong số này mang tính chất quá khích và thiếu lý tính. Ý tưởng này là cột trụ chính trong tác phẩm Political Liberalism (Chính trị cấp tiến) (1993)(10) mà trong đó, Rawls tái trình bày và sửa chữa lại những gì đã đưa ra trong Luận Thuyết. Chính trị cấp tiến công nhận và đương đầu với sự thể đa nguyên hợp lý/vừa phải (the fact of reasonable pluralism) bằng cách chứng tỏ rằng một tư tưởng chính trị có thể thích hợp với sự kiện đa nguyên lý của thực tế tư tưởng và ý thức hệ trong một xã hội . Điều này chính là sự “thỏa thuận chồng chéo” (overlapping consensus) giữa những luận thuyết công lý toàn diện. Tuy nhiên, ý niệm công lý trên cơ bản chính trị không cho phép nó nhân danh tính phổ cập và toàn cầu trên cơ sở giá trị và chân lý – vì nó không phải là một tư tưởng siêu hình hay tôn giáo. Ví dụ không thể minh định bản thể luận về con người hay là sự tốt đẹp tuyệt đối bằng một luận thuyết chính trị được.

6. Một quan niệm chính trị về công lý (a political conception of justice) có ba yếu tố: Thứ nhất, nó là một quan niệm đạo đức đặc thù cho các mục tiêu và điều hành của các định chế chính trị, xã hội và kinh tế. Rawls gọi những định chế này là cấu trúc căn bản (basic structure), mà trong đó, tất cả những cơ chế và định chế kết hợp lẫn nhau thành một hệ thống điều hợp xã hội từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thứ hai, quan niệm này không dựa trên hay bắt nguồn từ một chủ thuyết toàn diện nào, mặc dù nó có thể mang bản sắc của một hệ thống khái niệm và lý luận và cũng có thể được biện minh từ một hệ thống tư tưởng toàn diện khác. Thứ ba, nó cũng đặt cơ sở trên một bối cảnh văn hóa chính trị công cộng (public political culture) trong một xã hội dân chủ.

7. Bốn vai trò cho triết học chính trị: Điều quan yếu nhất vẫn là nhu cầu giải quyết vấn nạn trật tự nhằm đi đến một đồng thuận chính trị – mà trong đó, thứ nhất là sự hóa giải mâu thuẫn về tư tưởng. Hãy thử nhìn những mâu thuẫn của siêu hình học trên cơ sở tôn giáo trong lịch sử Tây Âu vốn đã đặt ra những vấn nạn lớn cho triết học chính trị – và là nguồn gốc của chủ nghĩa cấp tiến (liberalism) trên nguyên tắc dung thứ (toleration) của Locke, Montesquieu, Hobbes.(11) Muốn giải quyết mâu thuẫn tư tưởng thì phải tìm ra một cơ sở rộng lớn hơn để có thể đem những phương diện nhỏ của những yếu tố mâu thuẫn về lại với nhau. Trường hợp mâu thuẫn tư tưởng giữa tự do và công bằng là một đặc trưng. Sự khác biệt căn bản về hai ý niệm chính trị này đã tạo ra những mâu thuẫn của định chế chính trị, kể cả chiến tranh. Ngay trong ý niệm quyền tự do (liberties) cũng có những mâu thuẫn về sự phân định về quyền hạn, giữa cái gọi là “tự do của người xưa” (liberties of the ancients) bao gồm sự bình đẳng về quyền tự do chính trị và giá trị của đời sống công cộng (equal political liberties and values of public life), đối với “tự do của người đời nay” (moderns) bao gồm tự do tư tưởng, niềm tin, lương tâm, tự do về tài sản và thân thể, và quy tắc pháp chế.

Vai trò thứ hai của triết học chính trị là đóng góp vào một cơ sở tư tưởng cho cá nhân trong xã hội đang suy nghĩ về vấn đế quốc gia đại sự (từ cơ bản công dân) như là một vấn đề chung, vượt qua góc độ cá nhân riêng biệt và riêng tư. Đây là vai trò “hướng đạo” (orientation) mà trong không gian khái niệm, lý tính và suy tưởng sẽ hướng dẫn con người về với những mục tiêu vừa phải, hợp lý (reasonable and rational ends) trong một khung định chế thống hợp và hòa giải được nhiều góc độ của truyền thống, lịch sử và giá trị khác nhau của công dân.

Vai trò thứ ba là sự hòa giải (reconcilliation) – một ý niệm của Hegel trong cuốn “Triết học về Pháp quyền.” Triết học chính trị “cố gắng làm dịu những bực bội và giận dữ của công dân đối với xã hội và lịch sử bằng cách chỉ ra phương cách nhận thức để thấy rằng những định chế xã hội tự chúng là hợp lý và sẽ tiến hóa theo chiều hướng của lý tính.” Đây chính là yếu tính của câu nói lừng danh của Hegel, “Khi chúng ta nhìn về thế giới một cách hợp lý thì thế giới cũng sẽ nhìn lại ta một cách hợp lý.”(12) Tức là chúng ta phải tiếp cận với định chế xã hội, dù là với nhiều khiếm khuyết, một cách tích cực và với lý tính, chứ không phải chỉ tiêu cực và thụ động chấp nhận.

Theo đó thì một xã hội dân chủ không là, và không thể là, một cộng đồng (community) hay là một hội đoàn (association) – nếu như cộng đồng hay hội đoàn được hiểu là một tập hợp tự nguyện của những cá nhân cùng chia sẻ những quan điểm sâu rộng về một vấn đề trên cơ sở của một chủ thuyết toàn diện. Trái lại, xã hội dân chủ phải là “đa nguyên hợp lý” (reasonable pluralism) mà trong đó, dù có những khác biệt và mâu thuẫn sâu sắc vẫn có thể chia sẻ cùng nhau về một hệ thống định chế chính trị và quy tắc. Khi mâu thuẫn tư tưởng và giá trị quá sâu rộng và không thể hòa giải trên cơ sở ý niệm và giá trị thì định chế chính trị dân chủ và pháp chế sẽ giải quyết bằng phương cách thủ tục (pure procedural reconcilliation).(13)

Vai trò thứ tư của triết học chính trị mang bản chất lý tưởng thực tế (realistic utopian): Công việc thăm dò biên độ có thể đạt được trên thực tế của chính trị với niềm tin rằng xã hội con người, cho dù dưới hoàn cảnh nào, cũng sẽ có chổ đứng và cơ hội cho một trật tự chính trị vừa phải, công bằng và dân chủ. Chúng ta phải hỏi: Một xã hội dân chủ công lý sẽ như thế nào, dù là nó không được toàn hảo? Những lý tưởng và nguyên tắc nào mà xã hội dân chủ này có thể hiện thực được trong hoàn cảnh con người và truyền thống, lịch sử cho phép? Các khả thể chính trị và công lý luôn luôn phải đối diện và giải quyết bản chất vốn luôn là khó khăn của thực trạng xã hội.

Và cuối cùng, triết học chính trị, dù là một cơ năng tri thức cho nhu cầu hòa giải, không có nghĩa là nó phải dung túng và biện minh cho những chế độ chính trị ung thối, hay ý thức hệ giáo điều bất công, độc tài và áp bức. Cho nên, chính Rawls cũng đặt nghi vấn đến lý thuyết công lý của mình rằng nó có khả năng trở nên một loại giáo điều hay không nhằm điều chỉnh nó.

D. Con người Công lý

8. Hai Năng lực Đạo đức của mẫu người Công dân:

Mỗi công dân, trước hết và trên hết là một con người (person). Họ là những con người tự do và bình đẳng (free and equal). Con người này là mẫu người xã hội trên cơ bản công dân, dấn thân vào việc nước và xã hội một cách tích cực và tự nguyện và có khả năng làm chuyện đó. Con người ở đây là một khái niệm chính trị mang tính quy ước (normative), hơn là siêu hình hay là tâm lý. Mỗi công dân cần có hai năng lực đạo đức:

Thứ nhất: Khả năng cảm nhận được công lý (capacity for a sense of justice): Khả năng thông hiểu, ý chí áp dụng và hành động trên cơ bản nguyên tắc của công lý chính trị vốn phân định điều kiện công bằng cho sự hợp tác trong xã hội.

Thứ hai: Khả năng cho một quan niệm về điều tốt lành (capacity for a conception of the good): Khả năng để có được, cải tiến, và theo đuổi mục tiêu thiện lành một cách hợp lý. Quan niệm thiện lành là một tập hợp của những chủ đích và mục tiêu về giá trị cuộc sống, và của những gì đáng để sống cho. Đây là một hệ thống phân định giá trị hiện hữu trong mối tương quan với tha nhân và xã hội, thế giới, được đặt trên cơ sở rộng lớn hơn của triết học, tôn giáo và đạo đức.

9. Những công dân hợp lý: Người công dân là hợp lý/vừa phải (reasonable) khi họ, trong quan điểm tôn trọng lẫn nhau như là những cá thể tự do và bình đẳng, sẵn sàng cống hiến cho nhau những điều kiện công bằng cho sự hợp tác xã hội để rồi sẵng sàng hành động từ những điều kiện đó, dù cho rằng chúng có thể đem đến bất lợi cho chính mình. Đây là “tiêu chỉ hỗ tương” (criterion of reciprocity). Một phương diện khác cho một công dân hợp lý là “sự công nhận và sẵn sàng chấp nhận hệ quả của gánh nặng bị phán xét” (The burden of judgment). Họ phải ý thức được rằng những con người vừa phải và hợp lý có thể bất đồng ý kiến nhưng không đến nỗi là kỳ thị, thiên kiến hay quá ích kỷ, vụ lợi quá mức. Đây là nguyên tắc của “đồng ý về tình trạng không đồng ý.” Gánh nặng của phán xét từ sự bất đồng giữa người và người có từ bản chất của nhân loại, tính không hoàn tất của bằng chứng, mức độ quan trọng của mỗi vấn đề theo quan điểm từng người và từng nhóm, khái niệm mơ hồ, kinh nghiệm khác nhau, tiêu chuẩn quy ước đa dạng, và bản chất của cơ chế xã hội nhấn mạnh giá trị này, hay giảm nhẹ giá trị khác theo thời gian và hoàn cảnh khác nhau.

10. Phân biệt giữa con người hợp lý (reasonable) đối với con người lý tính (rational): Con người hợp lý là con người vừa phải, biết điều, chấp nhận luật chơi, dù có bị thua. Họ là con người công lý (just) và công bằng (fair). Còn con người lý tính là con người có thể vừa hợp lý hay vô lý (unreasonable), khi họ có thể lợi dụng cơ chế chưa toàn hảo của xã hội để làm hại người khác và làm lợi tối đa cho chính mình. Một con người hay một chế độ chính trị độc tài cũng rất có thể mang bản chất lý tính, dù rằng nó là vô công lý. Vô lý và hợp lý, do đó, nói về cảm nhận và khả năng đạo lý con người đối với tha nhân và xã hội, trong khi lý tính nói về khả năng hành xử trên cơ sở tri kiến.

11. Ba giai đoạn phát triển cho đạo đức chính trị của công dân:

(i) Thứ nhất là sự chấp nhận và tôn trọng tính đạo đức của thẩm quyền (morality of authority);

(ii) Thứ hai là phát huy tính đạo đức của đoàn thể (morality of association);

(iii) Thứ ba là tiếp nhận đạo đức của nguyên tắc (morality of principles);

Từ lúc còn là trẻ con trong khuôn khổ gia đình, thẩm quyền phải được học từ cha mẹ, anh chị, đến khi vào xã hội thì đạo đức đoàn thể được tiếp nhận và phát huy để đem cá nhân ra với tha nhân và tập thể. Đi đến giai đoạn chính trị quốc gia thì cá nhân nay là công dân trưởng thành với đạo đức chính trị trên hệ thống nguyên tắc chính trị công dân và công lý. Khi trở nên một công dân trên cơ sở chính trị quốc gia, thì cá nhân đóng đúng vai trò của mình trên nền tảng công lý như là lý tưởng xã hội mà họ phải tham dự vào và chia sẻ trách nhiệm cũng như hệ quả của các nguyên tắc định chế liên hệ.

E. Một Xã hội Công lý

12. Xã hội như là một hệ thống công bằng cho sự hợp tác (a fair system of cooperation) từ thế hệ này sang thế hệ khác, chứ không phải là nhất thời hay bất thường. Hợp tác xã hội không phải là sự làm việc có điều hợp, (coordinated activities), vì cái sau có thể do bị bắt buộc từ một cơ chế tập quyền. Hợp tác xã hội phải được hướng dẫn bởi quy luật và thủ tục phổ biến (publicly recognized rules and procedures), căn cứ trên điều kiện bình đẳng hỗ tương cho mọi người tham dự trên một tiêu chuẩn hợp lý và được đồng thuận cho mục tiêu hợp lý của họ.

Vai trò của những nguyên tắc công lý là để quy định những điều lệ cho sự hợp tác hỗ tương của xã hội. Những nguyên tắc này liệt kê những quyền hạn và nghĩa vụ căn bản mà định chế cơ bản của xã hội và chính trị quy định cho công dân, cũng như cai chế sự chia sẻ quyền lợi và gánh nặng trách nhiệm nhằm duy trì cán cân công lý chung. Do đó, ý niệm công lý trên cơ bản chính trị cũng chính là công lý dân chủ.

13. Quan niệm về một xã hội trật tự tốt đẹp (a well-ordered society): Là một xã hội được cai quản một cách hiệu năng bởi một quan niệm công lý công cộng (public conception of justice) nhằm đến ba điểm: Thứ nhất, mọi người đều chấp nhận, và biết rằng người khác cũng chấp nhận, về một quan niệm công lý chung. Thứ hai, định chế chính trị và xã hội cơ bản thỏa mãn được những nguyên tắc công lý này. Và thứ ba là công dân đều có một cảm nhận công lý hiệu năng, có khả năng áp dụng sự hiểu biết và cảm nhận công lý trong tổng thể quyền hạn và trách nhiệm của mình.

14. Ý niệm về cấu trúc cơ bản (basic structure): Công bằng (fairness) trong ý niệm công lý khởi đi bằng cơ chế căn bản xã hội được cai chế bởi nguyên tắc công lý – nhưng điều này không có nghĩa là nguyên tắc công lý sẽ cai chế trực tiếp các vấn đề nội bộ của những tổ chức riêng hay là hội đoàn xã hội. Nguyên tắc công lý trên cơ sở công bằng chỉ cung cấp một bối cảnh (background) của công bằng và hợp lý để giới hạn biên độ tự chủ của các định chế riêng biệt trong xã hội dân chủ đa nguyên lý. Ví dụ, giáo hội Công giáo có thể rút phép thông công của tín đồ nhưng không có quyền thiêu đốt họ. Do đó, đây là một thể loại công lý chính trị, chứ không phải là công lý toàn diện, ví dụ như công lý nhân quả, siêu hình. Rawls liệt kê ba tầm mức công lý: Công lý địa phương, dành cho định chế và hội đoàn; công lý nội địa dành cho cấu trúc cơ bản của xã hội; và công lý hoàn cầu dành cho công pháp quốc tế.

15. Lần nữa, đây là một lý thuyết công lý mang bản sắc khế ước xã hội: Tiếp tục truyền thống của triết học khế ước mà trong đó nhấn mạnh đến ba yếu tố cơ bản: Thứ nhất là điều kiện tiền chính trị (pre-political condition).(14) Thứ hai là khi một trật tự chính trị đang được xây dựng vừa khi con người bước ra khỏi thời kỳ tiền chính trị. Thứ ba, thực tế của hệ thống trật tự chính trị và xã hội với những khuyết điểm của nó mà chúng ta đang phải sống với. Cả ba điều kiện này đan quyện lẫn nhau để cho chúng ta có thể đánh giá và biểu lộ được một trật tự như thế nào, trong bối cảnh lý tưởng khả thi, có thể chấp nhận được là công bằng và hợp lý cho mọi người. Trên cơ sở khế ước xã hội, mà các pháp nhân đều có cơ bản quyền hạn, ý muốn và kiến thức ngang nhau đều được công nhận hỗ tương, sẽ đi vào một sự dàn xếp trên cơ sở hợp đồng để chung sống trong hòa bình.

F. Ý niệm về Vị thế Nguyên thuỷ (The Original Position)

16. “Vị thế Nguyên thuỷ” là một khí cụ diễn đạt, một phương tiện cho tư tưởng, nhằm giúp chúng ta hiểu thấu ý tưởng công lý trên cơ bản chính trị. Nó cũng giống như ý niệm “tình trạng thiên nhiên” về con người của Rousseau (15), hay là tình trạng tiền chính trị của nhân loại với Hobbes và Locke. Chúng ta thử hỏi: Con người xã hội như thế nào và sống với nhau làm sao trước khi định chế xã hội và chính trị được kiến tạo? Ý niệm về vị thế nguyên thuỷ của Rawls nhằm đến một cơ sở luận thuyết đi từ vị thế nguyên thuỷ của con người như là một sự tưởng tượng nhằm quy định một trật tự xã hội trên một cấu trúc căn bản nhằm thỏa mãn hai Nguyên tắc Công lý (dưới đây) để giải quyết những vấn đề của xã hội thực sự đang là.

17. Từ vị thế nguyên thuỷ, con người đại diện (representative persons) sẽ chọn những nguyên tắc công lý để cai chế cấu trúc cơ bản cho một trật tự xã hội công bằng và công lý. Mỗi con người thực hữu trong một trật tự xã hội công lý có một đại biểu trong vị thế nguyên thuỷ. Những đại biểu này là những tín nhân (trustees) và là người bảo hộ (guardians) đại diện cho tất cả những cá nhân trong tập thế chính trị của những con người tự do và bình đẳng.

Những đại biểu này có ba yếu tố thể hiện được hai năng lực đạo đức. Họ là những con người lý tính (rational persons) trong nỗ lực thực thi nguyện vọng của những người mà họ đại diện nhằm đạt được những nhu cầu công lý. Yếu tố này công nhận rằng mỗi cá nhân mà họ đại diện có một tập hợp quyền lợi riêng mà họ muốn hiện thực hóa. Những quyền lợi này gắn liền với năng lực đạo đức cá nhân để mà theo đuổi, thực thi và điều chỉnh một ý niệm về thiện lành cho cuộc đời.

Vị thế nguyên thuỷ là thế đứng cần thiết của lý thuyết mà ở đó, sự đồng thuận về một nội dung công lý chỉ là giả thuyết và không mang sử tính (nonhistorical). Sự đồng thuận này thể hiện một quá trình phân tích lý trí và đạt được một sự quân bình từ suy tưởng (reflective equilibrium).

18. Ý niệm về “Màn Vô Minh” (The Veil of Ignorance)

Những con người đại biểu này đứng sau cái mà Rawls gọi là “Màn Vô Minh” vốn che lấp họ đối với những kiến thức về những con người mà họ đại diện như là giới tính, chủng tộc, điều kiện cơ thể, tôn giáo, giai cấp hay là về ý niệm của thiện lành của những người này. Màn vô minh này là hình ảnh giả tưởng cho sự giới hạn của kiến thức cần thiết cho một lý thuyết trung hòa vượt qua các yếu tố đặc thù của con người thực sự trong sử tính. Đây là một khí cụ phân tích, biểu đạt, một “device of representation”, cho chủ đích lý luận trừu tượng và tự phối kiểm trong lý thuyết. Từ đằng sau cái màn vô minh này, không ai có thể lợi dụng kẻ khác vì bối cảnh và vị thế đặc quyền của mình, hay là vì sự yếu kém của kẻ khác. Mỗi đại biểu là một “con người vừa phải” (reasonable person) và hợp lý trong tư thế chí công, vô tư, không có yếu tố và điều kiện cá thể, nhằm đưa ra một công cụ lý thuyết trung hòa và hiệu năng để mọi người có thể chấp nhận được.

Nhưng điều này không có nghĩa rằng các đại biểu này hoàn toàn không biết gì cả về tình trạng tổng quát của xã hội và nhân sinh quan. Họ hiểu một cách rất tổng quát, trên cơ sở trừu tượng và phổ cập, vượt qua yếu tố đặc thù và tạm thời, về bản chất và khả năng con người – hắn muốn gì, biết lo lằng điều chi, ích kỷ làm sao, và theo đuổi cuộc sống như thế nào cho quyền lợi của hắn. Điều quan yếu nhất là các đại biểu biết rằng con người hợp lý có hai năng lực đạo đức về công lý, về thiện lành.

Nếu không có cái màn vô minh này thì các đại biểu lý thuyết sẽ chọn lựa một mô thức công lý có lợi cho mình – chưa kể đến vấn đề kỳ thị hay đối xử phân biệt cho mô thức định chế xã hội. Do đó, màn vô minh này sẽ kiến tạo một môi trường trong sáng và trung hòa cho một luận thuyết về công lý trên cơ sở quy trình (pure procedural justice) nhằm kiến tạo một thể chế cho một nền công lý nội dung (substantial political justice).

G. Hai Nguyên Tắc Công Lý

19. Nguyên Tắc Thứ Nhất: Mỗi người đều có quyền hạn không thể bị xóa bỏ trong một hệ thống bảo đảm toàn diện các quyền tự do căn bản tương xứng với quyền tự do cho tất cả (Each person has the same right (indefeasible claim) to a fully adequate scheme of equal basic liberties, which scheme is compatible with the same scheme of liberties for all); và

20. Nguyên tắc Thứ Hai: Những bất bình đẳng xã hội và kinh tế phải thỏa mãn hai điều kiện: thứ nhất, những bất bình đẳng này gắn liền với chức vụ và vị thế vốn được mở rộng cho mọi người trên cơ sở bình đẳng và công bằng cơ hội; và thứ hai, chúng phải vì lợi ích cao nhất cho những thành phần chịu nhiều bất lợi nhất trong xã hội (Social and economic inequalities are to satisfy two conditions: first, they are to be attached to offices and positions open to all under conditions of fair equality of opportunity; and second, they are to be to the greatest benefit of the least-advantaged members of society). Rawls gọi phần thứ nhì (vì lợi ích của giới bất lợi nhất) của nguyên tắc thứ Hai là nguyên tắc phân biệt (the difference principle)(16)

Nguyên tắc thứ nhất là ưu tiên, được gọi là “nguyên tắc bình đẳng tự do” (the equal liberty principle) nhấn mạnh đến quyền hạn tư do cơ bản là tối cao. Nguyên tắc thứ hai nhấn mạnh đến bình đẳng cơ hội tiến thân là ưu tiên – so với nguyên tắc phân biệt (the difference principle). Bình đẳng trên cơ hội tiến thân ở đây không chỉ nhắm đến một thể loại bình đẳng thể thức (formal equality), nhưng mà là một bình đẳng công bằng (fair equality) trong khả thể và khả năng tiến thân mà định chế và chính sách xã hội cho phép.

21. Tự Do Cơ Bản

Bao gồm các quyền: Tự do tư tưởng (freedom of thought), quyền hạn về niềm tin (liberty conscience), quyển tự do chính trị (ứng cử, bầu cử), quyền tự do tham gia hội đoàn và lập hội, quyền cá nhân con người được tôn trọng (integrity, physical and psychological, of the person), quyền tài sản, và cuối cùng là các tự do và quyền hạn này được bảo vệ bởi pháp chế (the rule of law).

Các quyền tự do cơ bản này là các quyền chính trị. Tất cả các phạm trù của nó, cả về freedom, tự do mang bản sắc giá trị và điều kiện, và liberties, tự do như là quyền hạn, cả hai đều mang bản sắc chính trị. Từ đó, Lý Thuyết về Công Lý là một tuyên ngôn chính trị về các quyền tự do cơ bản của con người. Nó bao gồm các quyền về tự do tư tưởng, báo chí, hội đoàn, tôn giáo, triết học, đạo đức, tín ngưỡng. Tự do chính trị bao gồm tự do tham chính, bầu cử, quyền được đại diện bởi cơ chế và định chế dân chủ, tự do hội họp, biểu tình ôn hòa, tự do không bị khám xét cơ thể và gia cư vô lý, tự do đi lại, cư trú, nghề nghiệp và không bị cưỡng bách lao động và nô lệ. Tất cả các quyền hạn và tự do phải được bảo vệ có thực chất và hiệu năng, công bằng pháp chế, phát xuất từ một chế độ chính trị dân chủ đại diện và qua cơ chế của quy trình nghị trường và kiểm soát lẫn nhau, bảo đảm sự tham dự và đóng góp vào tiến trình làm luật của quốc dân với quốc hội, hành pháp, áp dụng, phiên giải và giới hạn bởi một tư pháp độc lập, hiệu năng.

Một chế độ chính trị trên mô thức của hai Nguyên tắc Công lý đặt ưu tiên quyền hạn (right) lên trên cái tốt lành (good) – dù rằng cái gì là tốt được định nghĩa quá các quyền hạn tự do và dân quyền căn bản. Rawls gọi một khái niệm chính trị như vậy về tốt lành là “lý thuyết mỏng” (the thin theory) nhằm tránh bàn đến những vấn đề luận lý và nội dung của một chủ thuyết dành ưu tiên cái tốt lên trên quyền hạn, như tôn giáo chẳng hạn.(18)

23. Tự do được định nghĩa bởi quyền hạn trong nghĩa vụ

Công lý trên cơ sở công bằng dành ưu tiên cho các quyền tự do cơ bản – và công lý là một hiện thân của năng lực tự do. Khi cấu trúc cơ bản là công lý, các định chế xã hội là công minh, người công dân tự do là người có trách nhiệm hỗ tương trên chức năng xã hội của mình. Đây là nền tảng của trách nhiệm (duty) – nghĩa vụ từ vị thế công dân tự do, hợp lý, và công bằng, (responsibility) – nghĩa vụ từ hoàn cảnh đặc thù, mà nếu không làm một cách tự nguyện thì ta phải mắc món nợ xã hội. Vì thế, nếu định chế và cuấ trúc xã hội mà bất công thì công dân không phải là công dân đúng nghĩa, do đó, họ không có nghĩa vụ. Khi chế độ chính trị bất công, vô lý thì đó chỉ là một hình thức khủng bố, bạo lực, và áp chế. Nghĩa vụ và trách nhiệm công dân chỉ đến khi quyền tự do cơ bản và công dân được tôn trọng như là những cá thể có thẩm quyền chính trị, bình đẳng và có nhân phẩm.

24. Bổn phận chấp hành luật pháp bất công: Quy tắc Maximin

Tuy nhiên, luật pháp bất công không phải là biện minh đủ để cho công dân có quyền bất tuân, bất chấp luật pháp; và ngược lại, một đạo luật hợp hiến chưa hẵn là lý do đủ để nó phải được tôn trọng. Trong một xã hội “gần công lý” (near-just society), vấn đề bất tuân luật pháp là một sự đánh giá trên cơ sở tự do và dân quyền căn bản. Hiến pháp quốc gia có tôn trọng quyền tự do cơ bản? Hệ thống định chế công quyền có công bằng và hợp lý? Đến mức độ nào thì một bộ luật bất công vi phạm quyền công dân cơ bản? Và nếu phản đối, bất tuân thủ luật pháp thì theo hình thức nào? Các chọn lựa từ nhẹ đến nặng là tuỳ theo mức độ và bối cảnh bất công của chế độ chính trị: Biểu tình bất bạo động, bất hợp tác, từ chối trả thuế hay không tham gia bầu cử, hay là sẵn sàng bị bắt, đi tù để tranh đấu.

Bởi vì nếu không có một sự cân bằng vừa phải và hợp lý, thì tình trạng bất tuân luật pháp sẽ tạo ra những bất ổn chính trị và xã hội lớn hơn, làm cho tổng thể tự do và dân quyền càng bị suy thoái hơn – ngoại trừ sự bất ổn đó được chọn lựa như là mộ khả thể tối ưu, nhưng cần thiết, dù là không phải là tốt đẹp nếu có chọn lựa khác tốt hơn. Đây là biện minh chọn lựa chính trị theo “quy tắc Maximin” (chọn con đường nào mà kết quả tồi tệ nhất của nó sẽ là tốt đẹp hơn là tất cả các kết quả tồi tệ của các con đường khác)(17) để bãi bỏ một hệ thống cấu trúc cơ bản quá bất công, vô lý và áp chế không còn khả thi cải tổ.

25. Nguyên tắc Công lý là công bằng, Justice as Fairness, vì thế, là một công lý trên cơ sở cá nhân với nền tảng giá trị ưu tiên cho quyền tự do chính trị. Luật pháp chỉ có thể giới hạn tự do khi nào sự giới hạn đó sẽ đem đến một tự do và quyền hạn rộng lớn hơn cho tất cả – nhất là cho thành phần yếu kém trong xã hội. Do đó, tuỳ trường hợp mà ưu tiên tự do cá nhân phải được hy sinh cho cơ hội của những kẻ bị thất thế. Tự do cơ bản của nguyên tắc thứ nhất là tối thượng và chỉ có thể bị giới hạn cho một mục tiêu tự do phổ quát hơn. Ví dụ, một đại học có thể đối xử phân biệt trên cơ sở da màu vỉ muốn gia tăng sự hiện diện của một thiểu số chủng tộc nào đó, khi sự phân biệt này làm cho tự do của tất cả mọi người được gia tăng. Giới hạn tự do trong quân đội đối với binh sĩ phải được biện minh bởi nhu cầu ưu tiên vì tự do của quốc dân. Mục tiêu hiệu năng của chính sách nhỏ, như là gia tăng sản xuất cho một kỹ nghệ quốc doanh, không thể là một biện minh để có chính sách giới hạn tự do kinh tế của mọi người.

26. Các quyền này đến từ đâu? Có hai nguồn gốc của các quyền tự do căn bản. Một là lịch sử; hai là qua suy tưởng của phân tích. Chúng ta hãy thử hỏi, “Tự do và quyền hạn nào là những điều kiện xã hội cần thiết cho sự phát triển có hiệu năng và sự thực thi tốt đẹp cho hai năng lực đạo đức, công lý và thiện lành, cho con người trong suốt cuộc đời của họ?” Từ câu hỏi này, chúng ta nhìn lại lịch sử, phân tích bản chất con người và xã hội, nhận định điều kiện và hoàn cảnh đương thời nhằm tìm ra những quyền tự do cần thiết với những điều kiện và giới hạn của chúng trên cơ sở cá nhân sống với xã hội. Ví dụ, quyền tư tưởng hay tín ngưỡng, bao gồm quyền được sai lầm, quyền không tin tưởng, và khả năng tôn trọng quyền như vậy của tha nhân.

Làm thế nào để bảo đảm được các quyền tự do chính trị cơ bản không bị tập trung vào một thiểu số là vấn nạn của cán cân công lý mà điều kiện “công bằng cơ hội” và “công bằng giá trị” của quyền hạn và tự do phải được bảo đảm bởi pháp chế và điều kiện xã hội mà trong đó, cơ hội chính trị và kinh tế, giáo dục là tối cần thiết song song với công lý của quy trình và thủ tục, political and legal due process, phải được công minh và hợp lý.

Rawls quan niệm rằng đối với các quyền như quyền thừa hưởng gia tài, quyền kiểm soát phương tiện kinh tế hay đặc sản thiên nhiên thì không thể gọi là quyền tự do cơ bản.

27. Giải thích thêm về nguyên tắc thứ hai, tức là “nguyên tắc phân biệt” (the difference principle): Một trật tự xã hội công lý có quyền phân biệt đối xử nếu làm như vậy sẽ tạo cơ hội và thực tế tiến thân và làm tốt đẹp hơn cho các thành phần yếu kém bây giờ. Ví dụ, trong một đại học, lương của giáo sư là cao hơn lương của anh thư ký hành chánh, với điều kiện là cơ hội của chức vụ giáo sư được mở rộng đồng đều và công bằng cho anh thư ký và sự khác biệt về tiền lương là hợp lý (công việc đòi hỏi tài năng cao, giáo dục nhiều và lâu dài) cho một tổng thề quyền hạn và tự do cho mọi người tham dự. Nhưng một chính sách chỉ làm giàu thêm cho kẻ đã giàu, ví dụ giảm thuế cho chủ nhân các công ty lớn vì muốn khuyến khích đầu tư, trong khi gia tăng thuế cho kẻ lao động, thì sẽ không chấp nhận được trên cán cân của công lý nếu kết quả của chính sách này chỉ tạo thêm những khiếm khuyết về cơ hội và quyền hạn kinh tế chính trị cho kẻ thất cơ, yếu thế trong cộng đồng kinh tế liên đới. Nguyên tắc công lý thứ hai mang nhiều màu sắc xã hội chủ nghĩa và không ít thì nhiều mang bản sắc hữu dụng.

28. Công lý theo thể loại nào? Nguyên tắc thứ nhất nhấn mạnh và ưu tiên hóa gần như tuyệt đối các quyền tự do cơ bản mang bản sắc công lý tự do chính trị; trong khi, nguyên tắc thứ hai nhấn mạnh đến công lý phân phối (distributive justice). Đây không phải là công lý có sẵn đem phân bổ (allocative), vốn chỉ đương đầu với một số lượng công lý có sẵn, hay là công lý “đòi nợ” (retributive), vốn dựa trên vấn đề lịch sử. Và đây cũng không phải là một loại công lý siêu hình trên cơ sở toàn diện và tuyệt đối.

Công lý phân phối là phương thức cho vấn nạn này: Làm thế nào để những định chế của cấu trúc cơ bản có thể là khí cụ và được cai chế trong một hệ thống thống nhất để cho sự hợp tác của xã hội có thể được thực thi một cách công bằng, hiệu năng và có kết quả từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp? Như vậy, nguyên tắc công lý phân hành phải là thứ yếu theo trật tự ưu tiên công lý của tự do sau khi cấu trúc xã hội đã được vượt qua những giai đoạn chuyển hóa và lột bỏ màn vô minh cho con người (bàn dưới đây), mà việc tiên quyết là thiết lập một định chế chính trị và cấu trúc nền tảng bằng một hiến pháp như là bộ luật tối thượng của quốc gia nhằm bảo đảm và thực thi được các quyền tự do chính trị căn bản.

29. Bốn giai đoạn thực thi cho hai Nguyên tắc Công lý

Màn vô minh sẽ được tháo gỡ theo tiến trình hiện thực hóa công lý chính trị bao gồm bốn giai đoạn.

– Thứ nhất: Từ đằng sau màn vô minh, các đại biểu chấp nhận hai Nguyên tắc Công lý;

– Tiếp theo đó là sự tiến hành trong ba giai đoạn nhằm từ từ tháo bỏ cái màn vô minh nhằm thực thi toàn bộ và hiệu quả hai nguyên tắc;

– Công tác căn bản thứ hai là triệu tập một hội nghị lập hiến (constitutional convention) nhằm thiết lập các định chế chính trị và luật pháp cơ bản quốc gia qua ba phân ngành tách biệt với những đều khoản về dân quyền và công dân quyền được công nhận và quy định;

– Thứ ba, là khi quốc hội và hành pháp cùng chính thức đưa ra những đạo luật nhằm thực thi các yếu tố cần thiết cho quyền tự do chính trị cơ bản;

– Giai đoạn cuối, thứ tư, là khi các đạo luật được thực thi bởi các cơ chế công quyền, qua quy trình và pháp quy hành chánh, trong khi các mâu thuẫn về thực tế và sự kiện cũng như sự phiên giải và áp dụng vào đời sống sẽ là vai trò chính của ngành tư pháp (judiciary).

30. Chỉ tiêu của công lý là ở cấu trúc cơ bản

a. Lý do thứ nhất: Thực tế lịch sử, xã hội và kinh tế không cho phép chúng ta cái xa xỉ bỏ qua tất cả những bất công hiện thời để rồi có thể thiết lập một tiến trình chính sách cho công lý mà không thiết lập lại một điều kiện bối cảnh công bằng (fair background conditions) cho lý tưởng công lý. Để có được một bối cảnh công bằng, định chế quốc gia, tức hiến pháp và các bộ luật cơ bản, phải bảo đảm được chức năng bảo vệ và phát huy quyền tự do chính trị và làm người cơ bản, đồng lúc bảo đảm một hệ trình tiến bộ trong công lý xã hội và kinh tế vốn cần thời gian và sự gia tăng trình độ dân trí. Đây là phần vụ quan yếu của cái mà Rawls gọi là “quy luật về tiến trình, thủ tục thuần túy cho bối cảnh công lý” (the rules of pure procedural background justice). Quy luật về tiến trình này bao gồm hai phương diện: Một là về vĩ mô đối với các định chế cơ bản về quyền hạn và tự do; hai là về vi mô đối với các tương quan giữa cá nhân và các tổ chức trong xã hội dân sự và kinh tế.

b. Lý do thứ hai: Công lý trên cơ sở công bằng chỉ có thể thực thi bởi định chế và cấu trúc chính trị cơ bản – mà nếu không có, thì công lý không thể có được. Con người trong một xã hội phải là công dân của quốc gia, và vì thế, họ phải chịu sự cai chế và ảnh hưởng nặng nề bởi định chế công quyền cơ bản. Mỗi công dân sinh ra trong một quốc gia, sống, và rồi đi ra khỏi bằng cái chết. Và xã hội đó bao giờ cũng chứa đầy bất công và bất bình đẳng. Bởi thế hai Nguyên tắc Công lý như là công bằng phải giải quyết những bất công qua định chế của cấu trúc cơ bản nhằm giảm thiểu những phân phối không đồng đều của con người trong hoàn cảnh cá nhân của họ vì nhiều lý do từ giai cấp, thừa kế, khả năng bẩm sinh, hay là may rủi trong suốt cả cuộc đời. Công lý chính trị và xã hội phải đưa cơ hội thăng tiến đến cho triển vọng cuộc đời (life-prospects) cho mọi công dân trong cuộc.

31. Những giá trị và quyền hạn cơ bản (primary goods)

Để minh định những kẻ yếu thế là ai thì điều cần thiết là minh xác những giá trị và quyền hạn cơ bản sau:

i. Quyền hạn và tự do cơ bản: Tự do tư tưởng và tự do lương tâm – vốn tối cần cho sự phát huy hai năng lực đạo đức công lý của cá nhân.

ii. Tự do đi lại, nghề nghiệp và cơ hội thăng tiến trong xã hội.

iii. Quyền hạn và trách nhiệm của vị thế và chức năng công quyền và xã hội

iv. Lợi tức và của cải

v. Cơ sở xã hội để phát huy nhân cách hay tinh thần tự trọng (social bases of self-respect) mà trong đó con người tôn trọng chính mình vì định chế xã hội tôn trọng nhân phẩm của mình – khác với tự trọng (self-respect) trên cơ bản từng cá nhân.

Muốn là một công dân đúng nghĩa, tức là một con người có khả năng tham dự cuộc chơi xã hội, họ phải có những giá trị và quyền hạn căn bản trên. Các quyền này là những gì cấu tạo nên một ý niệm tổng thể cho nhu cầu công lý trong một bối cảnh quốc gia và xã hội bao gồm nhiều hệ ý thức hay triết học, niềm tin, giá trị hay tôn giáo khác biệt và đối nghịch nhau. Các sản phẩm cơ bản “primary goods” là các yếu tố nền tảng cho một cơ chế quốc gia có thể tồn tại và sinh động có hiệu năng và giá trị. Mục tiêu của một chế độ công lý là nâng cao số lượng và phẩm chất của những “primary goods” này. Những ai có ít số lượng và phẩm chất của chúng là những kẻ “yếu kém” cần phải được chú trọng trong định chế và chính sách thăng tiến cho họ.

32. Công dân có thể mong mỏi được quyền lợi nào?

Nguyên tắc công lý phân phối đặt cơ sở trên tiêu chuẩn đòi hỏi hợp lý (legitimate claims) và được hưởng những gì mình xứng đáng (earned entitlements). Họ tôn trọng luật chơi và mong mỏi rằng trò chơi sẽ công bằng dù họ có bị thua. Vấn đề là quy luật phải công minh, rõ ràng, không thiên vị và không bất công khi áp dụng. Khẩu hiệu ở đây là: “Những gì cá nhân làm tuỳ thuộc vào những gì mà quy luật và khế ước xã hội đồng ý họ sẽ được hưởng; những gì họ được hưởng tuỳ vào những gì họ làm.” (So với Marx trong Phê phán chương trình Gotha: “Mỗi người lao động theo khả năng, và được hưởng theo nhu cầu”)

Cá nhân trong bối cảnh quyền hạn và nghĩa vụ sẽ không được phán xét trên cơ sở đạo đức hay theo giá trị tôn giáo siêu hình vì mỗi con người là một công dân trong một tập hợp xã hội đa nguyên và đa dạng mà nhiều nguyên tắc đạo đức siêu hình có thể mâu thuẫn và đối nghịch lẫn nhau. Những gì mà công dân có quyền hưởng tuỳ vào sự đóng góp vào hệ trình chung của cơ đồ công lý. Đây là điều kiện “có qua, có lại” trên cơ sở trách nhiệm và quyền lợi hỗ tương. Không ai có quyền thừa hưởng trên cơ sở đạo đức chỉ vì họ làm người (moral desert); nhưng họ có quyền lợi, từ trong một xã hội công lý và công bằng, đóng vai trò công dân theo khả năng và hoàn cảnh, do đó, họ phải được hưởng những quyền hạn và quyền lợi như thế (just entitlement).

33. Ý niệm về “Lý lẽ Công ” (the Idea of Public Reason) trên một cơ sở biện minh công khai (Public Basis of Justification)

Nếu chúng ta muốn hai Nguyên tắc Công lý có thể được chấp nhận phổ cập và có hiệu năng, thì phải có một cơ sở biện minh công khai, một quy chế cho đồng thuận, cho tiến trình nghi vấn, tìm hiểu, thắc mắc cho quần chúng. Quy chế này phải có một tiêu chuẩn thủ tục, tiêu chuẩn bằng chứng, nhằm gia tăng hiệu năng tham dự của công dân trong các vấn đề tranh luận chính trị. Vì thế, khế ước nguyên thuỷ cho hai Nguyên tắc Công lý phải bao gồm hai phần:

– Đồng thuận về những nguyên tắc công lý chính trị cho cấu trúc cơ bản; và

– Đồng thuận về những nguyên tắc lý luận (lý lẽ thông thường) và quy chế bằng chứng (tiêu chuẩn khoa học khách quan) cho việc quyết định sự áp dụng của hai Nguyên tắc Công lý, áp dụng đến mức độ nào, và luật pháp và chính sách nào là thích ứng cho nhu cầu công lý đương thời. Trên phương diện đạo đức công dân, tinh thần vừa phải, ôn hòa, công bằng cũng là một phần của giá trị biện minh công khai nhằm đạt được một nội dung chính trị công dân trên cơ bản tôn trọng lẫn nhau như là những con người vừa phải, hợp lý và lý tính. Đây là giá trị của văn minh công vụ (public civility) nhằm bảo đảm được một biên độ quy tắc và định chế vừa phải cho những khác biệt chính kiến – tránh được các nạn khẩu hiệu tình cảm, giáo điều về tư tưởng chính trị và niềm tin.

Từ đó, lý lẽ biện minh công khai sẽ là một giá trị chính trị thứ nhì sau nhưng giá trị chính trị của các quyền hạn và tự do căn bản. Theo Rawls, chúng ta quan tâm đến lý tính (reason), chứ không phải chỉ về sự thảo luận (discourse).

H. Lý luận về cấu trúc cơ bản

34. Một cách để xếp loại thì có năm loại chế độ cho các hệ thống xã hội: (a) Tư bản phóng nhiệm laissez-faire; (b) Tư bản công lợi (welfare-sate capitalism); (c) xã hội chủ nghĩa quốc gia với kinh tế chỉ đạo (state socialism with a command economy); (d) dân chủ tư hữu (property-owning democracy); và (e) xã hội (dân chủ) cấp tiến (liberal (democratic) socialism).

Có bốn câu hỏi cơ bản cho một chọn lựa chế độ: (a) Về quyền hạn: Hệ thống định chế của nó có công lý và đúng cách (just and right)? (b) Về thiết kế chính quyền: Định chế của chế độ có thể kiến tạo một cách có hiệu năng nhằm thực thi những tiêu chí đề ra? (c) Thái độ công dân: Liệu rằng, trong tất cả những quyền lợi và chủ đích của họ được đề ra bởi hệ thống cấu trúc cơ bản, có thể tuân thủ theo quy luật của định chế trong mọi bối cảnh sinh hoạt? Và (d) Khả năng và chức năng: Liệu những công tác đề ra cho các cơ chế trở nên quá khó khăn cho nhân sự tham dự thực thi được chính sách cho mục tiêu chọn lựa?

35. Chế độ dân chủ tư hữu là tối ưu trên cơ sở của hai Nguyên tắc Công lý. Trước hết, hãy phân tích những khuyết điểm của các chế độ khác:

  1. Chế độ tư bản laissez-faire chỉ bảo đảm được một thể loại bình đẳng hình thức (formal equality) trong khi chống lại giá trị công bằng của các quyền hạn tự do và bình đẳng chính trị (fair value of the equal political liberties) và công bằng của bình đẳng cơ hội (fair equality of opportunity). Chủ đích của chế độ này là phát triển kinh tế trong khi những mầm móng bất công chỉ được cai chế bởi một quy chuẩn xã hội tối thiểu.
  2. Chế độ tư bản công lợi cũng chống lại các quyền hạn tự do và bình đẳng chính trị, và dù là nó quan tâm một ít đến bình đẳng cơ hội, nó không có mang một tính chất thiết yếu chính trị nhằm thực thi nó trong những ưu tiên khác. Nó cho phép sự tồn tại của bất bình đẳng trong bất động sản và tập trung quyền lực kinh tế và chính trị vào tay một thiểu số. Hơn nữa, dù cho có chính sách công lợi rộng rãi, nguyên tắc hỗ tương (principle of reciprocity) trong nỗ lực cai chế sự bất bình đẳng kinh tế và xã hội không được công nhận.
  3. Chế độ xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế chỉ huy và độc đảng trung ương tập quyền thì vi phạm các quyền bình đẳng quyền hạn và tự do và không tôn trọng ngay cả giá trị cơ bản của chúng. Trong nền kinh tế trung ương chỉ đạo này, giá trị dân chủ của cơ chế thị trường và những tiến trình điều chỉnh khuyết điểm của nó cũng bị thiếu sót trầm trọng.
  4. Chế độ dân chủ tư hữu và xã hội cấp tiến cả hai đều bảo đảm quyền tự do cơ bản và công bằng cơ hội bằng hiến pháp dân chủ trong khi điều chế công bằng kinh tế bởi nguyên tắc phân biệt (the difference principle). Cho dù dưới chủ nghĩa xã hội cấp tiến, phương tiện sản xuất được làm chủ bởi tập thể, nhưng được phân tán mỏng ra một cách rộng rãi và quân bình, song song với quyền hành chính trị và công quyền nhằm bảo đảm được sự vận hành hiệu năng và hợp lý của kinh tế thị trường tự do.

36. Một chế độ dân chủ tư hữu sẽ thực hiện được lý tưởng của hai Nguyên tắc Công lý một cách có hiệu năng hơn khi mà bối cảnh của hệ thống định chế cơ bản sẽ phân tán cơ năng và quyền lực kinh tế rộng rãi hơn cho nhiều thành phần và giai tầng trong xã hội – nhất là phương tiện sản xuất kinh tế. Thêm vào đó, chế độ dân chủ tư hữu sẽ đặt ưu tiên cho sự bình đẳng cơ hội thăng tiến cho mọi người, nhất là thành phần yếu thế. Chủ đích của bình đẳng cơ hội trong chế độ tư hữu là đưa mọi người đến một sân chơi bằng phẳng của cơ hội và luật chơi, chứ không bảo đảm kết quả của trò chơi. Đối tượng của chính sách công bằng cơ hội không nhằm đến các thành phần rủi ro, thiếu may mắn. Trong nguyên tắc phân biệt của công lý, thành phần yếu thế (the least advantaged) không phải là kẻ sa cơ, thất thế tạm thời. Xã hội mắc nợ thành phần yếu thế trên lý do của nguyên tắc hỗ tương (reciprocity), trách nhiệm hai chiều (mutuality) từ cán cân công lý chính trị vì họ là những con người bình đẳng và tự do – chứ không vì lòng từ bi hay vì tội nghiệp cho họ (mặc dù sẽ có những chính sách an sinh xã hội, trợ cấp thất nghiệp, tàn tật, y tế xã hội).

I. Ý niệm về Thiện/Tốt (the Good) trong cán cân công lý

37. Hai Nguyên tắc Công lý cần phải dựa trên hai nội dung giá trị của quyền hạn và thiện lành. Một hệ thống định chế công lý hay là những đức hạnh chính trị sẽ không phục vụ được điều gì – ngoại trừ những định chế và đức hạnh chính trị giúp công dân duy trì lý tưởng thiện lành trong tổng thể giá trị toàn diện mà họ sống với. Theo Rawls thì một ý niệm về công lý chính trị phải tự nó dung chứa đủ một không gain cho tinh thần ngưỡng vọng trong đức tin về con người và cứu cánh xã hội của công dân. Nếu không thì hệ thống chính trị tự do sẽ không quân bình theo chiều dài thời gian. Theo đó thì, “Cái Công lý phân định giới hạn; cái Tốt chỉ ra cứu cánh” (The Just draws the limit; the Good shows the point).

38. Nhưng cái Tốt là gì? Có thể đưa ra sáu ý niệm về “cái Tốt” trong lý tưởng công lý:

  1. Cái tốt là của lý tính (the good as rationality) mà trong đó con người trong cuộc, trên cơ sở công dân, có được một trực giác về dự án cho đời sống của họ để mà theo đó, họ theo đuổi bằng lý trí, ý chí, nỗ lực thành đạt theo cảm nhận đó.
  2. Cái tốt bao hàm những chỉ tiêu chính trị cơ bản của những quyền chính trị của những cá thể tự do và bình đẳng.
  3. Cái tốt là cái được thừa nhận phổ quát cho tiêu chí công lý xã hội đến từ một bối cảnh rộng lớn hơn từ nhiều chủ thuyết toàn diện về giá trị nhân văn, bao gồm, cả những chủ thuyết mang tính cực đoan, tuyệt đối, nhất là vê siêu hình hay tôn giáo.. Do đó, ý niệm và quyền hạn là cái phải rõ ràng, phân định trong quyền hỗ tương trên cơ sở xã hội, chứ không có quyền hạn tuyệt đối (ví dụ, xử tử những kẻ bỏ đạo).
  4. Cái tốt là của đức hạnh chính trị bao gồm khả năng nhân nhượng, vừa phải, khách quan, chấp nhận sự bất đồng chính kiến, tôn trọng tiến trình và quy tắc thủ tục, chấp nhận quy tắc chung quộc, ví dụ, đa số thắng thiểu số trong bầu cử.
  5. Cái tốt của một trật tự xã hội tốt đẹp (well-ordered society) kiến tạo bởi hai Nguyên tắc Công lý.
  6. Và cái tốt trong một xã hội như là một tập hợp của những xã hội nhỏ trong một xã hội lớn.

Như vậy, khởi đi từ ý niệm của tốt lành như là lý tính (goodness as rationality) kết hợp với ý niệm chính trị về con người, về sự thể của đời sống, và cấu trúc tổng quan về những dự án cho một cuộc đời hợp lý, chúng ta có những giá trị tốt đẹp của sản phẩm cơ bản (the primary goods). Từ những sản phẩm cơ bản này, để tìm ra chủ đích của những ai tham dự vào vị thế nguyên thuỷ của luận thuyết, the theoretical original position, chúng ta kiến tạo nên hai Nguyên tắc Công lý. Từ đó, cái gì là “tốt” tuỳ theo tính liên hệ chấp nhận được trong phạm vi của hai Nguyên tắc Công lý này. Sau đó là vai trò của đức hạnh chính trị của công dân, vốn cấn thiết để bảo đảm sự tồn tại và phát huy của một cấu trúc chính trị cơ bản qua thời gian.

K. Định chế cho Công lý

39. Phân biệt giữa “Nhân bản công dân” (Civic humanism) đối với “Cộng hòa cổ điển” (classical republicanism)

Hai Nguyên tắc Công lý trên cơ bản chính trị và công bằng thích hợp với nền chính trị cộng hòa cổ điển, nhưng phản nghịch với chính trị nhân bản công dân. Nhân bản công dân là một thể loại chính trị trong truyền thống triết học Aristotle với quan niệm rằng công dân là những “con vật chính trị” trong một xã hội dân chủ mà sự tham gia vào việc chung là phổ biến, rộng rãi, tích cực như là một khuôn mặt chính yếu và cần thiết của cuộc đời. (18) Sự tham gia tích cực vào việc chính trị là điều kiện cần thiết nhằm bảo vệ các quyền tự do căn bản và cũng là một cơ sở giá trị định nghĩa cho cái gì là tốt đẹp toàn diện cho con người. Nhưng như vậy, theo Rawls, thì loại chính trị dấn thân này đã trở nên một chủ thuyết toàn diện (a comprehensive doctrine) vốn không phù hợp với hai nguyên tắc công lý đưa ra ở đây. Trong các xã hội dân chủ hiện đại ở Tây phương – không như chính trị của Athens hồi trước – sinh hoạt và tham gia chính trị không phải là điều kiện phải có và là nhu cầu tối cao của công dân, dù điều đó rất là hữu ích và mang giá trị lớn. Bởi vì tham gia và hoạt động chính trị như là một điều kiện cho công dân được hưởng quyền tự do căn bản thì các thành phấn bất lợi và yếu thế sẽ không được hưởng quyền hạn và tự do cơ bản xứng đáng trong lý tưởng công lý ở đây.

Nền cộng hòa cổ điển cũng rất coi trọng sự tham gia và dấn thân tích cực, rộng rãi vào việc nước và chính trị ở khắp mọi tầng lớp và mọi phương diện như là điều kiện quan -trọng cho sự tồn vong của chính trị dân chủ và một xã hội công lý – nhưng nó không coi sự tham dự chính trị như là một đức hạnh, một phạm trù tốt đẹp, thiện lành trong một chủ thuyết toàn diện cho giá trị con người. Vì vậy, sự khác biệt giữa hai nền chính trị này thực ra chỉ ở mức độ tham gia của công dân trong sự liên hệ đến giá trị toàn diện và tuyệt đối của các cá thể công dân. Cả hai nền chế độ đều lên án chủ trương rút lui về đời sống tư nhân, riêng biệt, không màng gì đến chính trị hay là việc nước của công dân – vì như thế là tạo cơ hội cho các thành phần năng động và quyền lực tập trung được quyền hành trong tay họ, tạo ra sự bất công từ đó.

40. Phân biệt giữa Dân chủ Hiến pháp đối với Dân chủ Quy trình (Constitutional versus Procedural Democaracies)

Sự phân biệt căn bản là ở vai trò của hiến pháp (thành văn hay bất thành văn). Trong chế độ dân chủ tư hữu, hiến pháp phải quy định và đặt ưu tiên giá trị tự do và quyền hạn căn bản được nêu lên ở Nguyên tắc Công lý thứ nhất. Quan trọng nhất là một tập hợp những điều khoản về dân quyền (bill of rights) liệt kê những quyền tự do của con người, vai trò của luật pháp và tòa án bảo vệ các dân quyền, và sự giới hạn thẩm quyền của đa số và quyền lập pháp không được vi phạm các quyền căn bản của thiểu số. Ví dụ, lập pháp, dù là với đa số lớn lao, không thể làm luật không cho người thiều số theo đuổi một nghề nghiệp, vì đạo luật này sẽ vi phạm nguyên tắc bình đẳng của mọi người.

Trong khi đó, trong một nền dân chủ quy trình, hiến pháp không đóng chức năng giới hạn thẩm quyền của lập pháp và đa số. Quyền hạn cơ bản của thiểu số, hay là của thành phần bất lợi thế trong xã hội, có thể bị vi phạm qua tiến trình dân chủ bằng những đạo luật làm nên bởi lập pháp và hành pháp đại diện cho đa số (majority) hay là số nhiều (plurality) của thành phần xã hội. Do đó, chính trị dân chủ qua giá trị của quy trình, dù khách quan và công minh, cũng không thể là một chế độ chính trị hiệu năng cho hai Nguyên tắc Công lý.

Tuỳ vào mỗi văn hóa và truyền thống chính trị dân chủ mà nền chính trị hiến pháp là có công lý hơn hay là cũng giống như nền dân chủ quy trình. Nếu trong một xã hội mà văn hóa chính trị và ý thức công dân cao, thì vai trò hiến pháp thành văn không còn là tối quan trọng – như trường hợp của Anh quốc vốn không có hiến pháp thành văn với các điều khoản dân quyền như các nước khác nhưng đó là một nền chính trị dân chủ rất gần với hai Nguyên tắc Công lý. Văn kiện và chữ viết mà không có gì khác hơn thì cũng chỉ là một tờ giấy với ngôn ngữ thuần ước vọng vô nghĩa hay chỉ là khí cụ tuyên truyền, như trường hợp các quốc gia độc tài chuyên chế luôn luôn có các hiến pháp đầy đủ các điều khoản dân quyền.

Tuy nhiên, chúng ta không thể coi thường vai trò giáo hóa và giáo dục chính trị, cũng như là vai trò chính đáng của luật pháp cho các nhà đấu tranh công lý, đối với văn kiện hiến pháp với các quyền cơ bản được nêu lên thành văn bản chính thức trong một truyền thống văn hóa chính trị dân chủ chưa trưởng thành. Hiến pháp và đạo luật trong nhiều hoàn cảnh lịch sử và xã hội, nhân văn, đóng vai trò giáo dục chính trị nhiều hơn là chức năng cưỡng bách pháp chế. Ở đây, khi mà hai Nguyên tắc Công lý phải đi đôi với ý niệm “Lý luận công khai và minh bạch” (public reason), thì vai trò giáo dục chính trị của hiến pháp thành văn không thể bị chối cãi. Bởi vì dân chủ bao giờ cũng là thuộc về chính trị nghị trường và thảo luận, một quy trình sinh hoạt và tranh luận để đi đến một kết quả quân bình và qua suy tưởng bao giờ cũng là điều kiện cần thiết – cái mà Rawls và Ronald Dworkin gọi là “nguyên tắc diễn đàn công chúng” (the public forum principle).

41. Phân biệt giữa Cấp tiến chính trị và Cấp tiến Toàn diện (Political versus Comprehensive Liberalism)

Cấp tiến Toàn diện là sự dung thứ cho tất cả mọi giá trị dù cực đoan hay độc tôn được phát huy và chủ động chính trị và xã hội. Trong khi đó, Cấp tiến Chính trị mở rộng không gian công lý cho một mẫu người chính trị vừa phải, hợp lý, công bằng và tôn trọng quy luật hỗ tương. Vì vậy, cấp tiến chính trị không chấp nhận một giá trị cấp tiến toàn diện vì cái sau cho phép những chủ thuyết hay niềm tin tuyệt đối, nhiều khi không bao dung, như là các phong trào cộng sản toàn trị, hay các chủ thuyết tôn giáo cực đoan như Hồi giáo cực đoan, được đóng vai trò chủ động chính trị. Bởi vậy, một chế độ chính trị công lý phải bao gồm những giá trị tuyệt đối nhưng phải không đến mức chúng vi phạm Nguyên tắc thứ Nhất về tự do và quyền hạn cơ bản. Thực ra, một nền công lý hiệu năng phải tìm cách hóa giải bớt tác động của các chủ thuyết cực đoan mà không phải loại trừ chúng. Ví dụ, các trẻ em sinh ra trong các giáo phái cực kỳ bảo thủ, không muốn cho con em được học hành theo chế độ giáo dục quốc gia, không cho phép các em bé được chữa bệnh theo tiêu chuẩn y khoa đương thời, hay cho phép các tín đồ được đa thê, như ở Hoa Kỳ với giáo phái Mormon, thì một chế độ Cấp tiến Chính trị sẽ phải có pháp luật cưỡng chế giáo dục hay y tế và hôn nhân theo tiêu chuẩn “quyền lợi tối cao” của quốc gia (compelling state interests) đồng lúc tạo cơ hội cho trẻ em liên hệ có cơ hội chọn lựa trong sự hiểu biết vượt qua vòng giới hạn giáo điều của gia đình và cộng đồng giáo phái của chúng.

42. Vai trò Gia đình

Hai Nguyên tắc Công lý bao gồm cả vai trò của gia đình trong cái vế liên tục từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp của con người trong một xã hội công lý. Từ cơ bản gia đình, con người được nuôi dưỡng, giáo hóa, để đến khi có đủ khả năng, bước vào hệ thống hợp tác với xã hội để cùng dấn thân và chia sẻ, cộng hưởng và phát triển tất cả những gì mà xã hội đó cống hiến. Từ đó, cơ chế gia đình là một đơn vị trong nhiều đơn vị khác hỗ tương lẫn nhau trong cùng một hệ thống mà lý tưởng mà hai Nguyên tắc Công lý sẽ được áp dụng trực tiếp, nhưng không can thiệp vào nội bộ của đời sống riêng tư của từng gia đình cho đến mức mà những gì tư riêng của gia phong không ảnh hưởng và đi ngược với nguyên tắc cơ bản của công lý và pháp luật quốc gia và xã hội. Ví dụ, vai trò của vợ chồng trong gia đình thì tuỳ vào cá nhân trong gia đình đó xếp đặt, nhưng người chồng, chẳng hạn, không được quyền vi phạm nhân phẩm, hành hạ hay bạo hành với người vợ, hay cha mẹ không được lạm dụng và hành hạ con cái.

L. Trả lời những chỉ trích từ Marx đối với chủ nghĩa Cấp tiến

43. Về các chỉ trích cơ bản:

(a) Các quyền hạn và tự do căn bản (Marx gọi là “tự do của người đời nay”) chỉ để diễn đạt và bảo vệ tính chất ngã mạn của công dân trong xã hội tư bản. Trả lời: Trong một chế độ dân chủ tư hữu có hiệu năng, các quyền căn bản này sẽ bảo vệ những quyền lợi cấp cao của công dân như là những cá thể tự do và bình đẳng. Dù rằng quyền tư hữu cho mục tiêu sản xuất kinh tế được công nhận nhưng không phải là quyền cơ bản.

(b) Các quyền cơ bản trong một chế độ dân chủ hiến pháp chẳng qua là quyền theo hình thức. Trả lời: Bằng giá trị công bằng của các quyền tự do chính trị, tất cả mọi công dân, dù trong vị thế hay hoàn cảnh nào, đều có cơ hội hợp lý nhằm ảnh hưởng đến việc nước.

(c) Trong chế độ hiến pháp công nhận quyền tư hữu thì các quyền tự do chỉ là tự do tiêu cực (negative liberties). Trả lời: Trong các định chế bối cảnh (background institutions) của nền dân chủ tư hữu với nguyên tắc bình đẳng cơ hội của Nguyên tắc Công lý thứ Hai, Nguyên tắc Phân biệt, (the Difference Principle), sẽ bảo vệ được hiệu năng các quyền tự do tích cực (positive liberties).

(d) Về sự phân cấp lao động bất công trong chế độ tư bản. Trả lời: Các quyền cơ bản về con người và quy luật lao động trong bình đẳng cơ hội thăng tiến giáo dục và kinh tế sẽ có khả năng giải quyết vấn đề bất công lao động.

44. Lý tưởng “cộng sản” toàn diện đối với một xã hội “Gần công lý” (Near-just society)

Rawls nhấn mạnh rằng, hai Nguyên tắc Công lý không thể nào so sánh với một viễn tượng xã hội được cộng sản hóa toàn diện vì một xã hội cộng sản lý tưởng thì các vấn nạn công lý không còn nữa khi mà các vấn đề công lý phân phối đã được vượt qua và công dân không phải đương đầu với thực tế hay hoàn cảnh bất công nữa. Nhưng đây là điều không tưởng – như ai cũng biết đến điều này. Công lý ở đây phải thừa nhận và khởi đi từ thực tế xã hội, lịch sử, con người trong các chế độ dân chủ – gọi là các “xã hội gần công lý” (near-just societies). Trong các “xã hội gần công lý”, thực tế tâm lý con người và hoàn cảnh khiếm khuyết khách quan không thể được đuổi đi bằng ước mơ và lý tưởng. Lý tưởng công lý toàn diện để vượt qua vấn nạn công lý một cách tuyệt đối để không còn là vấn đề chính trị nữa chỉ là ảo tưởng trong một chủ nghĩa toàn diện, điều mà chính trị công lý không thể cho phép hay là đáng để cho con người ước mơ.

M. Vấn nạn Ổn định

45. Một luận thuyết chính trị, như là hai Nguyên tắc Công lý ở đây, sẽ không hoàn tất nếu nó không giải quyết khả năng mất quân bình cho xã hội và đưa đến sự bất ổn định theo thời gian, dù cho công lý có được gia tăng. Rawls đặt vấn đề ổn định chính trị trên bình diện quan hệ chính trị giữa công dân và hệ thống định chế cấu trúc cơ bản của xã hội. Theo đó, thì bản chất liên đới chính trị này có hai khuôn mặt:

  1. Con người không có tự do để đi vào hay đi ra khỏi một cấu trúc chính trị cơ bản, như là một hội đoàn hay một tôn giáo. Mỗi công dân là một đơn vị chính trị, dù muốn hay không. Họ bước vào chính trị từ lúc sinh ra đời, và chỉ bước ra khi họ chết. Chính trị là một hệ thống kín cửa.

(b) Quyền lực chính trị mang theo nó là quyền cưỡng chế, nhân danh thẩm quyền luật pháp hay là bạo lực.

Từ hai khuôn mặt của tính liên đới giữa công dân và định chế xã hội, con người chính trị là công dân, được công nhận trên giá trị công lý chính trị, độc lập với các hệ thống giá trị toàn diện, dù không phủ nhận chúng (Rawls gọi vị thế này là “quan điểm đứng riêng” (free standing view). Con người chính trị như là công dân có khả năng và đức hạnh chính trị để có thể chấp nhận và dung thứ nhiều giá trị và nhu cầu không chính trị trong giới hạn tương đối rộng rãi và bao gồm của Hai Nguyên tắc Công lý. Đây là nguyên tắc “Đồng thuận chồng chéo” (overlapping consensus) để cho tất cả những năng động giá trị và đòi hỏi của xã hội được hòa hợp, sống chung và hòa giải, qua giá trị chính trị và năng động dân chủ quy trình.

Trong một chế độ dân chủ tư hữu mang nội dung cấp tiến được kiến tạo bằng hai Nguyên tắc Công lý này, với một định chế hiến pháp hợp lý và có khả năng, thì các mâu thuẫn tự nhiên về giá trị và ước vọng khác nhau sẽ được giải hóa trên cơ sở đa nguyên tính của bản sắc chính trị công lý này. Khi con người sống trong một nền dân chủ với định chế công lý này, khi họ là những công dân vừa phải, có lý tính, chấp nhận tính tương đối của thực tế con người và tập thể, họ dần dần sẽ về gần với giá trị trung hòa của quốc gia qua sự thăng tiến về cơ hội và ý thức mà Hai Nguyên tắc Công lý sẽ tạo nên. Khi họ chấp nhận và đồng thuận với cuộc chơi chính trị, khi mà dân chủ quy trình và nghị luận qua định chế lập pháp, khi mà chức năng hành pháp và tư pháp đóng đúng vai trò hiệu năng vừa phải, theo một nhịp độ tiến hóa theo môi trường dân trí và điều kiện kinh tế và nhân văn, thì nền chính trị công lý này sẽ có khả năng ổn định và bền vững lâu dài. Đây là điều mà Rawls gọi là một khả năng của “quân bình phản quy” (reflective equilibrium) trên cơ sở đồng thuận hợp lý của những con người lý tính và tốt lành với hai năng lực đạo đức cho nhu cầu công lý.

46. Công lý này có thể trở nên một thể loại chính trị sai lầm và tạo ra một xã hội bất ổn định?

Khi mô thức công lý chính trị đem con người từ bình diện giá trị toàn diện về tới cá thể công dân trên giá trị chính trị độc lập, nó có thể mang một nguy cơ: Mệnh lệnh công lý có khả năng đem xã hội vào một nội dung chính trị sai lầm. Hãy nhìn lịch sử chính trị thế giới trong thế kỷ Hai mươi khi chủ nghĩa Marxism hứa hẹn một giải pháp toàn diện cho vấn nạn công lý xã hội và kinh tế.

Trả lời: Theo mô thức công lý trên Hai Nguyên Tắc đề ra, và tất cả những phạm trù giá trị đi kèm theo, nhất là tiêu chuẩn “đồng thuận chồng chéo”, và nguyên tắc “Biện minh công khai” và “dân chủ quy trình,” mô thức công lý chính trị sẽ bảo đảm được một sự chọn lựa hợp lý, về gần cũng như về lâu dài, vì khả năng tự điều chỉnh, tự học hỏi của hệ thống dân chủ quy trình và nghị luận, suy tưởng. Lỗi lầm của công lý chính trị Marxism sẽ chỉ bị vướng vào khi một thiểu số ưu tú và năng động quyền lực chiếm thời cơ chính trị và độc đoán, độc quyền bảo hộ hết tất cả các giá trị công lý và chính trị cho quốc dân. Một định chế dân chủ tư hữu cấp tiến với một cấu trúc cơ bản công minh và công bằng, một hệ thống định chế dân chủ có thực chất qua một quy trình lập pháp hiệu năng với một nền tư pháp độc lập và có thẩm quyền tối cao thì ổn định chính trị có thể được duy trì theo khả năng ứng biến và điều chỉnh linh động trên nguyên tắc hợp lý và có khả năng công lý. Một xã hội bất công là một xã hội bất ổn.

47. Sáu lý do vì sao mô thức công lý chính trị này phù hợp với tâm lý chính trị của con người.

Có sáu lý do trên cơ sở tâm lý quần chúng và cá thể để biện minh rằng Hai Nguyên tắc Công lý sẽ kiến tạo được một xã hội ổn định và tiến hóa quân bình lâu dài.

(i) Trên cơ bản của một con người chính trị với hai năng lực đạo đức (xem #8), công dân sẽ có khả năng về một ý niệm về thiện lành và khả năng tiếp nhận những ý niệm công lý để mà hành xử theo ý niệm này. Tức là, họ có khả năng cả về vừa phải và hợp lý.

(ii) Khi họ cảm thấy và tin rằng các định chế xã hội là công bằng và công lý, và tha nhân cũng sẽ thấy như vậy, công dân sẽ sẵn sàng tham dự vào việc nước theo cung cách và khả năng của mình một cách tích cực để duy trì và phát huy công lý từ đó.

(iii) Khi công dân có chủ đích thực hữu để đóng góp vào cơ chế mà họ tin vào thì sự tin tưởng này sẽ gia tăng cả hai chiều, từ cá thể đến định chế và ngược lại, cũng như giữa con người và con người trong xã hội. Từ đó, tổng lượng của chữ tín sẽ gia tăng và khả năng hòa giải cho những xung đột và mâu thuẫn cũng trở nên dễ dàng hơn.

(iv) Khi khả năng đạo đức công dân gia tăng với mức độ và số vốn chữ tín trong xã hội cũng phát triển vừa đủ, thì sự hợp tác giữa xã hội và công dân ngày càng bền vững và sâu rộng, lâu dài, và tự do cũng như quyền hạn công dân cũng bảo đảm, gia tăng và phát huy.

(v) Công dân sẽ đến lúc công nhận những điều kiện khách quan và có sẵn của hiện trạng xã hội từ một bối cảnh truyền thống và lịch sử cho một xã hội dân chủ hiện nay: (a) nó phải là đa nguyên hợp lý (reasonable pluralism); (b) nó là trường cửu, ngoại trừ, (c) tính đa nguyên này bị phá bỏ và vi phạm bởi một chế độ chuyên chính, độc tài; (d) công dân sẽ tham dự vào và chấp nhận gánh nặng phát xét lẫn nhau trong xã hội dân chủ đa nguyên.

(vi) Từ trong thực tế khan hiếm của cơ hội và thực tế cạnh tranh khó khăn cho đời sống, công dân sẽ chấp nhận luật chơi công bình và công lý trong một xã hội có cấu trúc cơ bản và định chế công lý sòng phẳng, minh bạch, hiệu năng, hợp lý và tình.

***

48. Trong đoạn văn cuối cùng của Luận Thuyết, trong nỗ lực biện minh cho ý niệm “vị thế nguyên thuỷ” của học thuyết công lý này, Rawls viết về tính trung hòa và không lịch sử, vượt thời gian của những con người tự nơi mình có lý tưởng và khả năng công lý đi tìm công lý cho tất cả, như là một giả thuyết cần thiết, rằng,

Cái viễn cảnh về vĩnh cửu (trên quan điểm công lý) không phải là từ quan điểm của một nơi vượt qua khỏi thế gian này, hay là từ một tính thể siêu nghiệm – mà là một thể thức tư duy và cảm nhận mà con người lý trí có thể chấp nhận được trong bối cảnh thế giới này. Và khi đã làm được như vậy, họ có thể, dù ở bất cứ thế hệ nào, đem tất cả cá nhân về lại chung qua sự đồng thuận về một hệ thức bao gồm nhiều quan điểm, để từ đó, thiết lập nên những nguyên tắc cai quản lẫn nhau vốn được chấp nhận bởi mọi người khi họ sống với những nguyên tắc này tuỳ theo quan điểm của từng cá nhân. Sự trong lành của trái tim, nếu đạt được như thế, bao gồm một viễn kiến minh bạch để con người có thể tác hành và sinh động từ quan điểm này trong trang trọng và có chủ đích.

49. Đối với người Việt Nam hiện nay, ở mọi nơi, trong và ngoài nước, thuộc nhiều thế hệ với những niềm tin và lịch sử cá nhân khác nhau, nhiều lúc mâu thuẫn, đối nghịch, khi đứng nhìn tới cơ đồ dân tộc Việt, khởi đi từ một nội dung chính trị trang trọng và văn minh nhưng chính trực và cương quyết của những con người có nhân phẩm, cùng nhau muốn kiến tạo một nền tảng chính trị công lý cho quốc gia, vượt lên trên tất cả các nhu cầu và điều kiện thực nghiệm đặc thù, thì trước hết, chúng ta hãy cùng đi đến một đồng thuận cơ bản: Rằng điều kiện tối thượng tiên quyết cho một xã hội công lý là quốc dân Việt Nam phải được tự do.

CHÚ THÍCH

  1. “Theory” có thể được dịch là “Luận thuyết” thay vì “Lý thuyết” hay “Học thuyết.” Luận thuyết mang tính chất thảo luận, bàn cãi (discourse) hơn là một tiền đề lý giải (lý thuyết) hay là một chủ trương học thuật (học thuyết). Hai tác phẩm sử dụng cho bài này là John Rawls, A Theory of Justice (Cambridge: Harvard University Press, 1971) và xem (2) dưới đây.
  2. John Rawls, Justice as Fairness. A Restatement (Cambridge: Harvard University Press, 2001)
  3. Do số lượng quá lớn của sách và những bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về kinh tế, chính trị, triết học, luật pháp và xã hội học về Lý Thuyết của Rawls trong suốt ba mươi năm qua không cho phép chúng tôi trích dẫn được. Trong khuôn khổ bài này, chúng tôi chỉ muốn giới thiệu sơ lược về Lý Thuyết mà không thể bàn sâu hơn. Dù rằng Lý Thuyết đã được dịch ra trên ba mươi thứ tiếng trên thế giới, nhưng theo chỗ tôi biết thì chưa có bản dịch Việt ngữ cho tác phẩm này. Tác phẩm đối trọng quan yếu nhất đối với Luận Thuyết là của Robert Nozick, Anarchy, State, and Utopia (1974), trong đó Nozick đưa ra một trường phái triết học chính trị của phía libertarianism (cổ võ cho một vai trò tối thiểu của chính quyền) chấp nhận kết quả bất công của xã hội nếu sự phân phối quyền lợi được làm nên bởi những con người trưởng thành, trên cơ bản tự nguyện và được khởi đi từ một điểm công bằng.
  4. Về một định nghĩa cho chủ thuyết “hữu dụng” (utilitarianism): Xem C (1).
  5. David Hume (1711-76): Triết gia gốc Scotland (Tô Cách Lan). Mặc dù Hume chưa thực sự nêu rõ thuyết hữu dụng một cách có hệ thống, nhưng những lý luận cơ bản về giá trị và đạo đức theo cơ bản tri thức luận của ông đã tạo nên truyền thống hữu dụng luận tiếp theo. Hai tác phẩm ảnh hưởng lớn đến hữu dụng luận của Hume là An Inquiryconcerning the Principles of Morals (1751) và Essays: Morals, Political and Literary (1741). Adam Smith (1723-90): Triết gia gốc Tô Cách Lan, tác giả của hai tác phẩm mang ảnh hưởng lớn về đạo đức và kinh tế, The Theory of Moral Sentiments (1759) và Wealth of Nations (1776). Jemery Bentham (1748-1832): Triết gia Anh về chính trị và đạo đức, cùng với Mill, là cha đẻ của thuyết hữu dụng cổ điển. Tác phẩm chính, An Introduction to the Principles of Morals and Legistration (1789). John Stuart Mill (1806-73): triế gia phiên giải nền tảng của hữu dụng luận có hệ thống trong tác phẩm Utilitarianism (1861). Tác phẩm khác lừng danh khác của Mill là On Liberty (1860).
  6. “Trực giác luận” (Intuitionism) chủ trương rằng, về phương diện đạo đức, con người có khả năng tự nhiên nhận ra cái đúng và sai mà không cần đặt trên cơ sở lý luận, cảm giác, suy tưởng, hay trí nhớ. Tức là, đức hạnh là những sự thật hiển nhiên (self-evident truths) như những định đề toán học cơ bản mà đã là con người sẽ phải nhận thức ra chúng khi đối diện với vấn đề của luân lý.
  7. – John Locke (1632-1704): Triết gia Anh, nổi tiếng là cha đẻ của trường phái Empiricism (Thực nghiệm luận). Tác phẩm quan yếu: Essay concerning Human Understanding (1869) và Second Treaty of Government (1869).

– Jean-Jacques Rousseau (1712-78): Triết gia Pháp, cùng với Locke và Hobbes, được xem là cha đẻ của thuyết “Khế ước xã hội” (Social contract). Hai tác phẩm quan trọng là Discourse on the Origin and Foundation of Inequality among Mankind (1755) và The Social Contract or Principles of Political Rights (1762).

– Immanuel Kant (1724-1804): Một trong những triết gia người Đức quan trọng nhất của triết học tây phương trong vai trò nâng cao vai trò lý tính trong siêu hình học và đạo đức. Tác phẩm quan trọng nhất là Crtique of Pure Reason (1781) (Xem Phế phán Lý tính Thuần tuý (2004), bản dịch Việt ngữ của Bùi Văn Nam Sơn, NXB Văn Học, Hà Nội). Sau đó là một loạt sách về Phê phán đạo đức và luân lý, trong đó có Critique of Practical Reason (1788) và Metaphysics of Morals (1797).

  1. Xem # 42 về các trả lời của Rawls đối với những chỉ trích trên cơ sở Marxism đối với Luận Thuyết.
  2. “Hệ thống lý thuyết toàn diện” hay “chủ thuyết toàn diện” (comprehensive doctrine) đòi giải quyết tất cả mọi phương diện của chính trị và xã hội, kể cả vấn đề bản thể luận và siêu hình. Chủ thuyết Hegel, Marxism hay các giáo điều tôn giáo, điển hình, là những chủ thuyết toàn diện. Rawls nhấn mạnh rằng Luận Thuyết là một “luận thuyết mỏng” (thin theory) hay là một “quan điểm đứng tự do” (free-standing view) vốn chỉ nhìn công lý trên cơ bản chính trị (justice as fairness as a political conception). Luận Thuyết không khẳng định hay phủ nhận các chủ thuyết toàn diện mà nó chỉ cổ võ cho một tình trạng đa nguyên giá trị vừa phải và hợp lý bằng nguyên tắc “thỏa thuận chồng chéo” (overlapping consensus).
  3. John Rawls, Political Liberalism (New York: Columbia University Press, 1996)
  4. – Thomas Hobbes (1588-1679): Triết gia người Anh vốn đã ảnh hưởng lớn đến các lý thuyết dân chủ Tây phương, đặc biệt là dân chủ Hoa Kỳ. Tác phẩm quan yếu là Leviathan (1651) . Quan điểm nổi tiếng của Hobbes là, “Cái gì là công lý hay bất công được quyết định bởi luật pháp quốc gia, chứ không phải là đạo đức hay vô đạo đức.” (“What is just or unjust is determined by the laws of the state, what is moral and immoral is not”).

– Baron de La Brede et de Montesquieu (Chức danh của Charles-Louis de Secondat) (1689-1755): Triết gia chính trị Pháp, được coi là tiếng nói lương tâm chính trị của Âu Châu cho phong trào Khai Sáng. Tác phẩm quan trọng, L’Esprit des lois (1748) đặt nền tảng triết luận cho một chính thể cộng hòa với nguyên tắc tam quyền, lập, hành và tư pháp, được phân lập và tách biệt.

  1. Georg W. F. Hegel 1770-1831): Triết gia Đức, cha đẻ của “Duy tâm tuyệt đối luận”. Tác phẩm chính, Phanomenology des Geists, (Hiện tượng luận về Tinh thần) (1807). Bản Việt ngữ của Bùi Văn Nam Sơn, Hiện tượng học tinh thần, NXB Văn Học, 2006). Ở đây, Rawls trích câu này từ Rechtsphilosophie (Triết học Pháp quyền) (1820) trong đó Hegel nói thêm về ý nghĩa hòa giải (reconcilliation) giữa triết học và thực tại như vậy, “Khi công nhận trí năng (reason) như là một bông hồng trên thập tự giá của hiện tại để mà thưởng ngoạn được hiện tại, đó chính là khi trực nghiệm lý tính (rational insight) cho phép chúng ta hóa giải được với thực tại (the actual), một thứ hòa giải mà triết học cho phép đến những ai có một tiếng gọi từ bên trong muốn thấu hiểu được vấn đề.” (Lời Nói Đầu). Xem Nguyễn Hữu Liêm, Tự do và đạo lý: Một khai giải về triết học pháp quyền của Hegel (NXB Biển Mới, California, 1993), cho một phiên giải bằng Việt ngữ của tác phẩm Triết học pháp quyền của Hegel.
  2. Công lý có hai phương diện: Nội dung (substantive) và quy trình (thủ tục) (procedural). Rawls đưa ra một thí dụ về công lý quy trình nhằm bảo đảm công lý trên căn bản thuờng nghiệm: Một số người (ví dụ 10) đồng muốn cắt chia một chiếc bánh. Muốn công bằng thì hãy để cho người cầm dao quyết định cắt bánh như thế nào là người cuối cùng lấy phần của mình. (1971:85) Công lý quy trình không bảo đảm kết quả, mà chỉ bảo đảm tính khách quan, vô tư và công minh cho luật chơi.
  3. “Tình trạng tiền chính trị” (Pre-political condition): Một giả định về tình trạng tâm lý và xã hội của con người trước khi sống trên tư cách công dân của một quốc gia với hệ thống chính trị, luật pháp và công quyền. Đây là giả định lý thuyết của Hobbes và Locke như là giả định về “Màn Vô minh” từ vị thế nguyên thuỷ cho Hai Nguyên tắc công lý của Rawls.
  4. “Tình trạng thiên nhiên” của Rousseau nói về một mẫu người nguyên trạng với cá thể chính mình trong “ý chí đặc thù” (particular will) khi họ còn chưa bị cai chế bởi định chế chính trị và giá trị cộng đồng, tức là “ý chí phổ quát” (general will), thông qua sự tham dự vào một “khế ước xã hội” giữa công dân và quốc gia..
  5. Hai Nguyên Tắc Công Lý được Rawls thay đổi ít nhiều, phần lớn là về hình thức và hành văn, từ lúc chúng được đưa ra năm 1971 cho đến 2001. Ở đây, tôi chọn văn bản được cập nhật năm 2001 trong cuốn Restatement.
  6. Quy tắc chọn lựa Maximin (Maximum-minimorum): “To identify the worse outcome of each available alternative and then to adopt the alternative whose worst outcome is better than the worst outcomes of all the other alternatives.” (2001: 97)
  7. Aristotle (384-322 B.C.): Triết gia hàng đầu của Hy lạp, là học trò của Plato (427-347 B.C.). Hai tác phẩm quan trọng về triết học chính trị là PoliticsNicomachean Ethics.