Press "Enter" to skip to content

QUAN NIỆM CỦA JÜRGEN HABERMAS

VỀ KHU VỰC CÔNG CỘNG

Quan niệm của Jürgen Habermas về Khu vực công cộng

Nguyễn Sỹ Nguyên

Ta không thể đánh giá đầy đủ về Jürgen Habermas nếu chỉ xem ông như là một triết gia. Trên nhiều phương diện, Habermas đã và vẫn là khuôn mặt trí thức hàng đầu trong lý thuyết về “khu vực công cộng” ở Đức, kể từ thập niên 1970, đồng thời là một lý thuyết gia về chính trị xã hội, và luật pháp, một nhà phê bình xã hội, nhà hành động chính trị. Và, trên hết, với tư cách một triết gia, ông nỗ lực cho một hướng đi mới của tư tưởng Đức, sau thời kì Quốc xã.

Công trình lớn đầu tiên của ông, “Strukturwandel der Öffentlichkeit. Untersuchungen zu einer Kategorie der bürgerlichen Gesellschaft [Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công cộng: Một nghiên cứu về phạm trù xã hội dân sự]” (1962), là một phản ứng phê phán đầy tính xây dựng đối với quan niệm của Horkheimer và Adorno về lý thuyết phê phán. Tác phẩm này nghiên cứu về sự xuất hiện của khái niệm “tính công cộng (die Öffentlichkeit)” và “công luận (öffentliche Meinung)”, về sự phát triển của chúng qua các thời kì, cho đến khi “khu vực công cộng” đi vào giai đoạn suy thoái. Sự xuất hiện của các khu vực công cộng giữ một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền dân chủ kể từ sau thời kì phong kiến tại Âu châu.

Trong nghiên cứu của mình, Habermas sử dụng phương pháp phê phán nội tại (immanente Kritik). Cách tiếp cận ấy bắt nguồn từ Hegel và Marx. Phê phán nội tại tức là phê phán một đối tượng – một quan niệm về xã hội, hoặc một tác phẩm triết học – dựa trên các bình diện của chính nó, thay vì dựa vào các giá trị và các tiêu chuẩn vượt trên đối tượng phê phán. Sự phê phán này nhằm mục đích soi sáng và vạch trần sự không đúng thật, sự không chân lý, hoặc sự thiếu vững chắc của nó.

Sự phê phán nội tại ở đây còn có nghĩa là sự phê phán về ý hệ. Các ý hệ (Ideologie) chính là những niềm tin sai lầm, nhưng được các thành viên trong xã hội giả định là đúng một cách phổ biến, vì họ đều bị thao tác phải tin vào chúng. Ngoài ra, các ý hệ còn là những niềm tin sai lầm mang tính chức năng, vì chúng phổ biến, nhằm ủng hộ và duy trì các định chế xã hội, lẫn các mối quan hệ thống trị. Phê phán ý hệ có mục đích vạch trần những ảo tưởng và những sự lừa mị xã hội đang hiện hữu, với hi vọng mang đến những giải pháp làm cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn.

  1. Các quan niệm về khu vực công cộng trước Habermas

Trước Habermas đã có một số triết gia đề xuất, hoặc bàn về ý tưởng “khu vực công cộng”. Tiêu biểu trong số đó là Immanuel Kant, G. W. F. Hegel và Karl Marx.

Immanuel Kant

Kant

Kant đã đề xuất xây dựng một chính quyền tốt đẹp. Chính thể ấy là sự thống nhất của chính trị và luân lý. Sự thống nhất này sẽ dẫn đến việc chính trị tất yếu phải được thực hiện theo nguyên tắc của lý tính, chứ không phải thông qua bạo lực. Trên thực tế, trong xã hội ấy, người công dân làm theo luật không phải vì sợ hãi việc bị trừng phạt, mà bởi họ nhận ra rằng luật pháp cho thấy bổn phận phải thực hiện trong mọi trường hợp.

Kant nhận ra một sự căng thẳng và xung đột giữa một bên là quyền lực cai trị và bên kia là lý tính. Sự cai trị được ông hiểu là “cái hiện tượng”, trong khi lý tính mới là “cái tự thân”. Đồng thời, Kant cũng gọi chính trị là vấn đề của res publica phenomenon / nhà nước hiện tượng, và gọi xã hội công bằng là vấn đề của res public noumenon / nhà nước tự thân.[1] Sau đó, ông nỗ lực bắt một nhịp cầu cho cái hiện tượng và cái tự thân thông qua “tính công khai (Öffentlichkeit)”. Kant tiếp cận vấn đề về sự hợp nhất giữa luân lý và chính trị từ hai hướng. Một mặt, ông dày công trừu xuất res publica noumenon từ res publica phenomenon qua giả định rằng, các điều kiện pháp lý cần thiết cho một xã hội công bằng là sản phẩm của một trật tự tự nhiên được hiện thực hóa trong lịch sử. Mặt khác, các điều kiện pháp lý này cần phải được xem xét, và phải được hiện thực hóa thông qua hành động của con người, mà quan trọng hơn là nhờ quá trình giáo dục người dân vì sự tiến bộ luân lý. Chính vì thế res public noumenon, xét như một sự tiến bộ luân lý, sẽ tạo nên res publica phenomenon.

G. W. F. Hegel

Hegel

Hegel đã có cái nhìn sâu sắc về một khu vực trung gian của “đời sống đạo đức” giữa gia đình và nhà nước trong tác phẩm “Các nguyên lý của triết học pháp quyền”. Khu vực đó được ông gọi là “xã hội dân sự / bürgerliche Gesellschaft / bourgeois society”. Khác với khái niệm “xã hội dân sự / civil society” trong thế kỷ 20, khái niệm “xã hội dân sự” của Hegel là khu vực của những quyền lợi kinh tế. Ông không ngần ngại gọi xã hội dân sự là sự “mất mát của đời sống đạo đức”. Bởi về mặt khái niệm, sự mất mát ấy ra đời một cách tất yếu từ sự giải thể của gia đình, như là hình thức đầu tiên của đời sống đạo đức. Hegel viết: “Xã hội dân sự, tức là, một sự nối kết những thành viên như là những cá nhân riêng lẻ độc lập-tự tồn trong cái mà vì thế được gọi là một tính phổ biến hình thức, bằng những nhu cầu của họ và bằng hiến chế luật pháp như là phương tiện để bảo đảm sự an toàn cho những nhân thân và sự sở hữu, cũng như bằng một trật tự bên ngoài phục vụ cho những lợi ích riêng và chung của họ là Nhà nước bên ngoài ấy.”[2] Hegel mô tả xã hội dân sự này với ba mô-men:

  • Sự trung giới của nhu cầu và sự thỏa mãn của cái cá biệt [cá nhân] thông qua lao động của mình và thông qua lao động và sự thỏa mãn nhu cầu của mọi người khác: hệ thống của những nhu cầu;
  • Hiện thực của cái phổ biến của sự tự do bao hàm trong đó, việc bảo vệ sở hữu bằng sự quản trị và thực thi công lý;
  • Sự dự phòng chống lại sự ngẫu nhiên bất tất vẫn còn có mặt trong các hệ thống nói trên, và chăm lo cho lợi ích đặc thù như một cái chung, bằng cảnh sát và hiệp hội” (§188).

Hegel nhận ra sự xung đột các quyền lợi giữa người chủ sở hữu tài sản và công nhân làm thuê trong xã hội dân sự. Ông khẳng định về “sự giải thể của xã hội dân sự”, như là một bước cho sự phát triển cao hơn của đời sống đạo đức trong nhà nước.

Karl Marx

Marx

Marx bàn về xã hội dân sự[3] trong phê phán của ông về Hegel và Thuyết duy tâm Đức. Nó được trình bày trong các tác phẩm “Về vấn đề Do Thái”, “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hegel”, và “Bản thảo kinh tế, triết học”. Thuật ngữ “xã hội dân sự” chỉ xuất hiện trong các tác phẩm thời trẻ của Marx, và đã không được sử dụng hay nhắc đến trong các công trình về sau.

Đồng thuận với Hegel, Marx xem xã hội dân sự là một khu vực của thị trường tự do, trong đó mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích riêng của mình. Tuy nhiên, khác với Hegel, Marx không cho rằng nhà nước là nơi hòa giải những mâu thuẫn lợi ích của các cá nhân. Hoàn toàn ngược lại, nhà nước là đại diện của quyền lợi thống trị bảo vệ lợi ích cho các giai cấp tư sản. Với Hegel, đúng như mô hình biện chứng tư biện của ông, nhà nước là cấp độ cao nhất của “đời sống đạo đức”, nơi chứa đựng những yếu tố đã được “vượt bỏ-bảo lưu-và-nâng cao” (aufheben / sublated) của hai cấp độ gia đình và xã hội dân sự. Đây chính là điểm trọng tâm trong phê bình của Marx về Hegel. Marx cho rằng chính xã hội dân sự mới là nền tảng cho nhà nước, chứ không phải ngược lại.

Trong “Về vấn đề Do Thái” (1843), Marx xem xã hội dân sự là khu vực của tính vị kỷ, ông dùng cách nói của Hobbes “cuộc chiến của tất cả chống lại tất cả”. Trong “Bản thảo kinh tế, triết học” (1844), ông nói về một xã hội thịnh vượng, như là lý tưởng của xã hội dân sự tư sản, chỉ mang lại “sự nghèo đói cho người công nhân”. Tuy nhiên, ông không xem xã hội dân sự là tĩnh tại và thiếu tiềm năng phát triển. Ông bác bỏ quan niệm về một xã hội dân sự được tạo nên bởi các cá nhân tách biệt, riêng lẻ, giống như các nguyên tử, bởi mỗi cá nhân dù có tính vị kỷ đều cần đến xã hội. Quan trọng hơn, những quan niệm của Marx trở nên sâu sắc hơn trong “Lời tựa cho góp phần phê phán kinh tế chính trị học” (1959). Ở đó, ông bắt đầu nhận ra rằng, các quan hệ luật pháp và các hình thức chính trị chỉ có thể được hiểu qua việc đánh giá các nguồn gốc của chúng trong xã hội dân sự. Giờ đây, xã hội dân sự được quan niệm là toàn bộ điều kiện vật chất của đời sống.

Marx thực hiện một “cuộc giải phẫu” về xã hội dân sự thông qua nghiên cứu về kinh tế chính trị. Theo quan điểm này, xã hội dân sự lúc nào cũng thay đổi cho đến khi cơ sở của nó trong sở hữu tư nhân bị thách thức bởi giai cấp lao động. Chỉ thông qua việc xóa bỏ sở hữu tư nhân, giai cấp lao động mới có thể xóa bỏ xã hội dân sự và nhà nước, đồng thời phải được thay thế bằng một hiệp hội của những người sản xuất tự do.

2. Quan điểm của Habermas trong định nghĩa và nguồn gốc của khu vực công cộng

Trong “Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công cộng”, bằng việc đặt phạm trù “khu vực công cộng dân sự” vào trung tâm nghiên cứu về lịch sử của chủ nghĩa tư bản, Habermas nỗ lực tìm kiếm những ý tưởng chuẩn mực về bản chất của nền dân chủ. Ông định nghĩa: “Khu vực công cộng dân sự trên hết có thể được quan niệm là không gian nơi các cá nhân tụ họp cùng nhau, như một cộng đồng. Họ sớm tuyên bố khu vực công cộng được điều hành bởi cái gì đó ngược lại với các quyền lực công, để đi vào một cuộc tranh luận về các quy tắc chung, điều khiển các mối quan hệ trong không gian về cơ bản được cá nhân hóa, nhưng gắn liền cộng đồng trong việc trao đổi hàng hóa và lao động xã hội. Môi trường của sự gặp gỡ chính trị này rất kì lạ, và chưa từng có tiền lệ: người ta sử dụng lý tính của mình một cách công khai.”[4]

Khu vực công cộng xuất hiện khi các công dân gặp gỡ để trao đổi, bày tỏ, diễn đạt quan điểm của mình về các vấn đề trong sự quan tâm chung, thông qua các hình thức trao đổi trực tiếp, hoặc thư từ, báo chí, hay các phương tiện truyền thông khác. Nhưng điều quan trọng là sự trao đổi này phải tuân theo lập luận hợp lý tính. Về nguyên tắc, tất cả mọi người đều có thể tiếp cận, tham dự vào khu vực công cộng, và đều được đối xử bình đẳng. Do đó, diễn ngôn trong khu vực công cộng là diễn ngôn thuần túy lý tính, thay thế cho lối “diễn ngôn mang tính công cụ”.

Mặc dù khái niệm “khu vực công cộng” chỉ mới xuất hiện vào thế kỷ 17, nhưng đã có sự phân biệt rạch ròi giữa công cộng và riêng tư, mà ta có thể truy nguyên từ người Hi Lạp qua hai từ: polisoikos. Polis là khu vực công cộng, nơi các công dân tự do không còn chịu ràng buộc bởi các vấn đề vật chất. Họ cùng đi vào để tranh luận về các vấn đề “nội trị” – tức là, các vấn đề luật pháp của thành bang – và “ngoại giao”, cũng như về việc tiến hành chiến tranh.[5] Đây được xem là khu vực để người công dân thể hiện năng lực của trí tuệ của mình. Bởi vì, khi đó những phẩm chất tốt nhất của một cá nhân mới được kiểm chứng và được mọi người thừa nhận. Để là một thành viên của polis, người công dân – một người đàn ông – phải sở hữu những nô lệ làm công việc oikos, tức là công việc sản xuất kinh tế.

Trong khi đó, đến thời trung cổ, sự phân biệt giữa công cộng và riêng tư mặc dù vẫn tồn tại nhưng không rõ ràng so với nguồn gốc Hi Lạp-La Mã của nó. Một mặt, tính công cộng là cái chung mà mọi người dân cùng chia sẻ, và được xem là đối lập với tính đặc thù hay tính riêng tư vốn thuộc về lãnh chúa. Nhưng mặt khác, quyền lực của lãnh chúa trong việc ra mệnh lệnh – khác với quyền của người chủ sở hữu các nô lệ như ở thời Hi Lạp – lại là “công cộng” [publicus]. Điều quan trọng đó là, nơi được xem là chung dành mọi người trong thời trung cổ lại không phải là không gian của những cuộc tranh luận đúng nghĩa. Ở đó, chỉ có một đám đông khán giả và đứng trước đám đông này là một quân vương hay lãnh chúa “tự thể hiện mình, tự cho thấy mình như là hiện thân của một loại quyền lực ‘tối cao’”[6]. Vì thế, xuất hiện khái niệm “tính công khai” trong chừng mực vị quân vương thể hiện quyền lực của mình trước đám đông.

Sự phân biệt giữa công cộng và riêng tư sau thời trung cổ cũng không rõ ràng hơn, mặc dù đã có những thay đổi. Trong khi vào thời phong kiến, quyền lực của lãnh chúa được mở rộng trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội, thì đến thời của chủ nghĩa tư bản sơ kì ta chứng kiến một sự tách biệt ngày càng triệt để giữa nhà nước và xã hội. Vị thế công cộng của triều đình hay nhà nước được xem là đối lập với khu vực riêng tư, gần gũi của đời sống gia đình, và hoạt động cá nhân, sự tự trị của tác nhân kinh tế (“khu vực xã hội dân sự”). Chính thành thị giờ đây đã thay thế triều đình trở thành bối cảnh chính của đời sống văn hóa, kinh tế và chính trị, và vì thế trở thành bối cảnh cho bản thân khu vực công cộng.[7]

Các giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản là thời kì của trao đổi thương mại, chứ chưa phải của sản xuất công nghiệp. Các giai đoạn này còn phát triển bên trong các cấu trúc của quyền uy phong kiến. Thành thị trở thành trung tâm thương mại với các chợ phiên được nhóm họp định kì. Nhưng, về cơ bản, nó không đe dọa trực tiếp đến quyền lực của lãnh chúa phong kiến, mà trong thực tế còn củng cố cho sự thống trị của thành thị đối với các vùng phụ cận. Dần dần, việc trao đổi thương mại vượt ra khỏi những giới hạn lãnh địa. Chính trong các giai đoạn này, giai cấp quý tộc cũng góp phần thúc đẩy thương mại, bởi họ là những người tiêu thụ các xa xỉ phẩm. Đồng thời nhà nước phong kiến ra sức ủng hộ các cuộc viễn chinh thương mại. Nhưng khi thương mại được mở rộng, thì một giai tầng mới xuất hiện. Đó là giai cấp tư sản bao gồm các thương nhân, chủ ngân hàng và nhà sản xuất. Trước đây, họ vốn là những “thị dân” theo nghĩa hẹp, nghĩa là thợ thủ công hay chủ cửa hàng trong một thành thị nào đó. Hoạt động và lợi ích của giai cấp mới hình thành này vượt ra khỏi những giới hạn của mọi thành thị đặc thù.[8] Nhằm bảo vệ cho các thị trường giai cấp mới này, cần có yêu sách đối với nhà nước để mở rộng và bảo vệ lãnh thổ bằng việc tổ chức quân đội và cảnh sát, và quan trọng hơn là thiết lập quản lý nhà nước hiệu quả hơn thông qua sự trưng thu các loại thuế. Cuối cùng, hoạt động của nhà nước thay đổi từ việc thúc đẩy thương mại sang việc thúc đẩy sản xuất. Đồng thời cơ sở của sản xuất kinh tế đã không còn ở nơi các hộ gia đình nữa. Sản xuất giờ đây không còn là một vấn đề riêng tư và cá nhân, theo nghĩa của từ Hi Lạp oikos. Sản xuất và kinh tế trở thành một vấn đề chung của toàn xã hội, và tuân theo sự thúc đẩy và điều chỉnh của nhà nước.

Nói tóm lại, khu vực công cộng xuất hiện bên trong quá trình tác động qua lại phức tạp của khu vực công của nhà nước và khu vực riêng của tác nhân kinh tế và đời sống gia đình. Trong khi vào thời phong kiến, người dân chỉ đơn giản tuân theo quyền lực của nhà nước, thì bên trong chủ nghĩa tư bản “tính công cộng” xuất hiện với một ý thức tập thể về bản thân mình, như là một cái gì đó đối trọng với nhà nước. Khu vực mới mẻ này phát triển các nguồn lực mang tính định chế và tri thức, cho phép nó mang chính sách của nhà nước vào cuộc tranh luận thuần lý và phê phán.

3. Quan điểm của Habermas về các khu vực công cộng

3.1. Khu vực công cộng văn chương

Theo Habermas, những nền tảng cho sự xuất hiện của khu vực công cộng dân sự không chỉ nằm trong sự phát triển của kinh tế thị trường, mà còn của một thị trường thông tin. Từ giữa thế kỷ 17, các tờ báo được gọi là “các nhật báo chính trị” đã bắt đầu xuất hiện. Các nhật báo này chọn lọc thông tin từ những bức thư trao đổi giữa các nhóm thương nhân về “các hội nghị, chiến tranh, mùa màng, thuế khóa, việc vận chuyển các kim loại quý hiếm, và những ghi chép về ngoại thương”.[9] Điều quan trọng là thông tin giờ đây đã trở nên có giá trị. Habermas cho thấy rằng, việc sử dụng chính thức các nhật báo chính trị này của các viên chức nhà nước chính là bước đầu tiên để xác định một giới độc giả chuyên biệt. “Các nhật báo chính trị” dần trở thành những nguồn thông tin mà chính quyền muốn phân phối. Do đó, chúng trở thành công cụ của việc quản lý nhà nước. Trong thực tế, chỉ có những người thuộc về “tầng lớp có học” mới đọc các nhật báo này. Họ là viên chức nhà nước, các nhà luật học, bác sĩ, mục sư, sĩ quan, giáo sư và học giả.

Tuy nhiên, sự xác định giới bạn đọc đã thay đổi với sự xuất hiện của nền văn chương hiện đại. Báo chí không còn chỉ đơn thuần cập nhật thông tin, mà giờ đây đã trở thành một môi trường của các cuộc tranh luận phê phán. Các quán café và các salon vào thế kỷ 17 đã tạo nên một khu vực công cộng cho sự tranh luận về thương mại và văn hóa. Các quán café trở thành nơi trao đổi thông tin thương mại, và cũng là nơi để các ý tưởng mới mẻ được trình bày và thảo luận. Tương tự như thế là các salon ở Pháp. Các salon vào thế kỷ 18 chủ yếu là nơi của những thú vui tao nhã. Nó trở thành một diễn đàn cho những ai có cùng sở thích đến trình bày, bàn luận về các vấn đề văn hóa và tri thức.

Song song với sự mở rộng của các quán café và các salon văn chương là hoạt động thương mại hóa nghệ thuật. Trong khi dưới thời phong kiến, nghệ thuật chỉ là công cụ truyền tải quyền lực nhà nước, cũng như chỉ được thể hiện trong các cuộc hành lễ tại nhà thờ, thì trong chủ nghĩa tư bản nghệ thuật trở thành một đối tượng của việc tiêu thụ, một hàng hóa. Kể từ đó, Habermas lưu ý rằng, tác phẩm nghệ thuật đã đánh mất “tinh hoa” của mình. Nghệ thuật đánh mất chức năng biểu tượng của nó, khi người thưởng ngoạn trở thành người tiêu thụ. Cũng kể từ lúc đó, xuất hiện các nhà phê bình nghệ thuật. Họ là những người sảnh sỏi trong cảm thụ tác phẩm nghệ thuật. Nhà phê bình nghệ thuật mang đến cho độc giả những biện minh về sở thích của họ, vì thế cũng nhằm giáo dục họ. Tuy nhiên, nhà phê bình không đứng trên độc giả của mình, và thẩm quyền của ông là do độc giả công nhận. Cho nên, khu vực công cộng đi đến một nguyên tắc quan trọng, đó là sự công nhận quyền uy của một lập luận chính đáng và thuyết phục.[10]

3.2. Khu vực công cộng chính trị

Khu vực công cộng chính trị xuất hiện thông qua sự ra đời của rất nhiều phương tiện truyền thông và định chế, nhưng quan trọng nhất vẫn là nền báo chí chính trị. Tại nước Anh, không gian này phát triển rất sớm và mạnh mẽ. Việc bãi bỏ luật kiểm duyệt đã mở ra một mảnh đất, giúp cho các nhật báo tham gia vào các cuộc bình luận chính trị. Đến năm 1803, báo chí được phép tác nghiệp tại hạ viện Anh.[11] Trong thời gian này, theo Habermas, triết gia Jeremy Bentham là người đầu tiên viết một chuyên luận, nhằm chỉ ra sự liên kết giữa ý kiến công khai và nguyên tắc của tính công khai.

Habermas viết: “Bentham quan niệm về những tham vấn công khai của nghị viện không gì khác hơn là một phần của những tham vấn công khai của khu vực công cộng nói chung. Chỉ có tính công khai bên trong và bên ngoài nghị viện mới có thể đảm bảo cho sự liên tục của tranh luận chính trị phê phán và chức năng của nó, nhằm chuyển đổi sự thống trị, như Burke đã trình bày, từ vấn đề của ý chí sang vấn đề của lý tính.”[12]

Các hoạt động của khu vực công cộng chính trị chủ yếu tập trung vào tính chính đáng của luật pháp. Như là phương tiện dùng để cai trị và kiểm soát của nhà nước, về nguyên tắc, luật pháp không thể dựa trên ý chí chủ quan của nhà cầm quyền, cũng không thể dựa trên quyền lợi cục bộ của một giai cấp, mà phải dựa trên lý tính công cộng. Habermas cho rằng sự cải cách luật pháp phải tập trung vào việc tách biệt khu vực riêng tư của gia đình và xã hội dân sự (bao gồm hoạt động kinh tế) ra khỏi sự cai thiệp của nhà nước. Trong thực tế, ở thời bấy giờ, các chính sách trọng thương tại Anh đã dần loại trừ quyền điều hành của nhà nước đối với trao đổi kinh tế, để cho nền kinh tế và xã hội được phát triển theo các quy luật của trao đổi hàng hóa.

Tuy nhiên, Habermas sớm cho thấy những yếu kém và mâu thuẫn trong thực tế của không gian này. Trong khi, về lý tưởng, nó cho phép tất cả mọi công dân đều có quyền đóng góp ý kiến để tranh luận, thì trong thực tế lý tưởng này chỉ mang tính thỏa hiệp. Bởi vì giai cấp lao động bị loại trừ và điều đó dẫn đến một số vấn đề nền tảng cũng không được bàn đến trong tranh luận. Những người có tiếng nói trong khu vực công cộng này là những người có chung quyền lực và quyền lợi kinh tế. Sự mâu thuẫn rất lớn về quyền lợi kinh tế giữa giai cấp lao động và tầng lớp tư sản không được nhắc đến. Thậm chí, còn không được thừa nhận về phương diện chính trị.

3. Quan niệm của Habermas về sự suy tàn của khu vực công cộng

Phần hai của “Sự chuyển đổi Cấu trúc” phác thảo quá trình tan rã và cáo chung của khu vực công cộng. Khi những tờ báo và tạp chí dần đạt đến một lượng phát hành lớn, chúng bị sát nhập vào những công ty tư bản khủng lồ hoạt động cho lợi ích riêng của một vài cá nhân quyền lực. Đến lúc đó, ý kiến công khai mất đi tính tự trị, cùng với chức năng phê phán của nó. Thay vì khuyến khích việc trình bày quan điểm hợp lý và những niềm tin khả tín, thì khu vực công cộng thế kỉ 19 và 20 trở thành một khu vực, qua đó ý kiến công khai có thể bị xếp đặt và thao túng. Các tờ báo, tạp chí, tiểu thuyết bestseller, truyền thông đại chúng, cùng với radio và truyền hình, trở thành những hàng hóa tiêu thụ. Thay vì thúc đẩy sự tự do và phát triển con người, thì trên thực tế chúng lại bắt đầu kiềm hãm nó. Chắc chắn, các định chế nhà nước, kinh tế, và chính trị có khả năng hơn trong việc thu hút thái độ ủng hộ và tán dương của công chúng. Tuy nhiên, sự ủng hộ này chủ yếu ở những quan điểm cá nhân của những kẻ tiêu thụ không phê phán, và phụ thuộc về kinh tế, hơn là ở một quan điểm chung hữu ích phát triển việc tranh luận công khai hợp lý tính.

Cái nhìn khá nghiêm trọng này về sự phát triển của xã hội tư bản phương Tây thế kỉ 20 gắn liền với phần lớn mô tả của Adorno và Horkheimer về cách thức “nền công nghiệp văn hóa” đã tạo ra ngày càng nhiều những kẻ tiêu thụ không phê phán và dễ bị điều khiển. Habermas cũng tiếp tục việc phân tích khá bi quan của Trường phái Frankfurt khi cho rằng, chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tự do nhà nước-phúc lợi ở Hoa Kì cuối cùng sẽ dẫn đến việc thu hẹp tự do của con người, và làm cho nền chính trị dân chủ trở nên rỗng tuếch.

Với tất cả những lý do đó, Habermas rõ ràng và tích cực hơn Adorno và Horkheimer về cách thức thực hiện. Khu vực công cộng, mà thực tế đã kết thúc và tan vỡ, nên được đào sâu, mở rộng, và tiếp tục, nhằm thực hiện một chức năng phê phán đối với các hệ thống kinh tế và chính trị, đồng thời đưa chúng vào những khu vực của sự kiểm soát mang tính dân chủ. Habermas kết luận “Sự chuyển đổi Cấu trúc” với niềm hi vọng rằng, một viễn cảnh phát triển như vậy vẫn có thể diễn ra, dựa trên cơ sở những không gian đang hiện hữu của tính công cộng, bên trong các tổ chức, chẳng hạn các đảng phái chính trị. Với những điều kiện chính trị và xã hội lành mạnh, một khoảng cách lớn giữa ý tưởng về một khu vực công cộng và về thực tế chính trị, có lẽ các thành viên trong xã hội sẽ gần nhau hơn.

Do đó, “Sự chuyển đổi Cấu trúc” của Habermas mang đến một bức tranh về khai minh ít thảm đạm và bi quan hơn “Biện chứng của Khai minh” của Horkheimer và Adorno. Lý thuyết của Habermas về khu vực công cộng duy trì lý tưởng về tranh luận tự do thuần lý giữa những người bình đẳng, tuy không thể thực hiện ngay lập tức, nhưng đáng để theo đuổi.

Tài liệu tham khảo

  1. Andrew Edgar, “Habermas: The key concepts”, Routledge, 2006.
  2. Andrew Edgar, “The philosophy of Habermas”, Acumen, 2005.
  3. James Gordon Finlayson, “Habermas: A very short introduction”, Oxford University Press, 2005.
  4. Juergen Habermas, “The structural transformation of the public sphere”, bản dịch Anh ngữ của Thomas Burger với sự cộng tác của Frederick Lawrence, MIT press, 1991.
  5. G. W. F. Hegel, “Các nguyên lý của triết học pháp quyền”, bản dịch Việt ngữ của Bùi Văn Nam Sơn, nxb Tri Thức, 2012.
  6. Ian Fraser and Lawrence Wilde, “The Marx dictionary”, Continuum International Publishing Goup, 2011.
  7. Craig Calhoun chủ biên, “Habermas and public sphere”, MIT press, 1992.
  1. Jürgen Habermas, “Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công cộng”, bản dịch Anh ngữ của Thomas Burger với sự cộng tác của Frederich Lawrence, First MIT Press paperback edition, 1991, tr. 114.

  2. G. W. F. Hegel, “Các nguyên lý của triết học pháp quyền”, Bùi Văn Nam Sơn dịch, nxb Tri Thức, 2012, tiểu đoạn§ 157.

  3. Marx & Engels toàn tập dịch “die buergerliche Gesellschaft / bourgeoise society” là xã hội công dân.

  4. “The bourgeois public sphere may be conceived above all as the sphere of private people come together as a public; they soon claimed the public sphere regulated from above against the public authorities themselves, to engage them in a debate over the general rules governing relations in the basically privatized but publicly relevant sphere of commodity exchange and social labor. The medium of this political confrontation was peculiar and without historical precedent: people’s public use of their reason.” Jürgen Habermas, “Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công cộng”, bản dịch Anh ngữ của Thomas Burger với sự cộng tác của Frederich Lawrence, First MIT Press paperback edition, 1991, tr. 27.

  5. Tr. 4, sđd.

  6. Tr. 7, sđd.

  7. Xem sđd, tr. 30-32.

  8. Sđd, tr. 23.

  9. Tr. 20, sđd.

  10. Tr. 40-41, sđd.

  11. Tr. 62, sđd.

  12. Tr. 100: “Bentham conceived of the parliament’s public deliberations as nothing but a part of the public deliberations of the public in general. Only publicity inside and outside the parliament could secure the continuity of critical political debate and its function, to transform domination, as Burke expressed it, from a matter of will into a matter of reason.”, sđd.